/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

Văn xuôi

SÔNG TAM BẠC Ở HẢI PHÒNG

Nhiều người dân có gốc gác nhiều đời tại nội đô Hải Phòng, nhưng cũng không biết sông Tam Bạc được tính từ đoạn nào đến đoạn nào...

SÔNG TAM BẠC Ở HẢI PHÒNG

.

       Nhiều người dân có gốc gác nhiều đời tại nội đô Hải Phòng, nhưng cũng không biết sông Tam Bạc được tính từ đoạn nào đến đoạn nào, vì mỗi sách viết một kiểu. Ngay cả “Từ điển Bách khoa Địa danh Hải Phòng” NXB Hải Phòng ấn hành năm 1998 cũng ghi: sông Trạm Bạc là sông Tam Bạc. Tôi có thể khẳng định rằng: Trong văn viết Hán Nôm, thì chữ Trạm () và chữ Tam () hoàn toàn khác nhau và ngữ nghĩa cũng hoàn toàn khác. Từ khi nước ta dùng chữ quốc ngữ (đầu thế kỷ XX), thì chữ Trạm và chữ Tam có chút la lá nhau, nên không thể nào sông Trạm Bạc là sông Tam Bạc được. Theo bản đồ huyện An Dương thời Đồng Khánh (1886 - 1888), thì Trạm Bạc xuyên (湛泊川), tức sông nhỏ Trạm Bạc, nghĩa nôm na là sông nhỏ “Bến Nước Sâu, hay Bến Nước Trong” được tính từ tả ngạn sông Nại (từ 1890 là sông Lạch Tray) thuộc giang phận làng Trạm Bạc, tổng Văn Cú, huyện An Dương (nay thuộc làng Trạm Bạc, xã Lê Lợi, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng) xuôi xuống phía hạ lưu. Hay bản đồ phụ cận cảng Hải Phòng do người Pháp làm năm 1874, thì đoạn sông phía hạ lưu từ ngã ba sông Cấm ngược lên hết giang phận làng Hạ Lý (nay là phường Trại Chuối) ghi là sông Tam Bạc. Còn đoạn từ ngã ba sông Trạm Bạc (trên cầu quay 250 mét) ngược ra sông Lạch Tray được người Pháp cho đào vào cuối thế kỷ XIX chia đôi làng Vĩnh Niệm và An Dương làm hai, nửa trên cắt cho làng Trang Quán và An Dương (bên tả kênh này), còn nửa dưới cắt cho làng Niệm Nghĩa và An Dương (bên hữu kênh này). Từ đó làng Vĩnh Niệm bị mất tên, còn làng hay xã Vĩnh Niệm thời nay mới có từ sau năm 1975. Hay bản đồ nội đô Hải Phòng năm 1898 do người Pháp làm ghi: Canal du Lach Tray, nghĩa là kênh Lạch Tray, tức đoạn kênh từ sông Lạch Tray qua cầu An Dương II và cầu An Dương I và gần tới cầu Quay ngày nay với chiều dài chừng hơn cây số.

.

Sông Tam Bạc, tức sông "Ba Bến" thời Pháp thuộc

.

Sông Tam Bạc, tức sông "Ba Bến" thời Pháp thuộc

.

Sông Tam Bạc, tức sông Ba Bến thời nay với đàn Thiên nga được vài tháng, giờ không thấy nữa.

.

          Trong tay tôi có tấm bản đồ thành phố Hải Phòng năm 1968, thì con sông từ làng Trạm Bạc đến ngã ba sông (trên cầu Quay một đoạn) ghi là sông Trạm Bạc. Sông Trạm Bạc hay sông Tam Bạc trước đây nó có hình hài ngoằn nghoèo tự nhiên. Vào sau năm 1968, thì sông Trạm Bạc được nắn chỉnh làm mới lại, nó qua làng Đồng Giới (tên Nôm làng này là Rế) huyện An Dương. Và cũng có thể do những nhà chuyên môn nhầm lẫn sông Trạm Bạc là sông Tam Bạc, nên tư vấn cho lãnh đạo thành phố Hải Phòng đổi sông Trạm Bạc thành sông Rế.

       Còn sông Tam Bạc được người Pháp nắn chỉnh từ cuối thế kỷ XIX khi quy hoạch nội đô Hải Phòng. Sông Tam Bạc là tên Nôm, nghĩa là sông "Ba Bến", hay sông Đa Độ ở An Thụy (An Lão - Kiến Thụy) cũng là tên Nôm, nghĩa là sông "có nhiều bến đò ngang". Tất cả các bản đồ nội đô Hải Phòng do người Pháp in vào các năm: 1874, 1887, 1898, 1903, 1910, 1915, 1920, 1924, 1937… đều ghi là sông Tam Bạc. Theo cách đặt tên truyền thống của ông cha ta, thì con sông trải dài phân ra từng đoạn sông một, mỗi một đoạn sông đó gắn liền với quyền lợi và nghĩa vụ của địa phương đó. Ví dụ sông Bạch Đằng thời Nguyễn được tính từ Năm Cửa (nay là khu vực cầu Bến Rừng) tới hết xã Lập Lễ (ngã ba sông Ruột Lợn và sông Bạch Đằng), còn đoạn nối tiếp là sông Nam Triệu, nên mới có cửa biển Nam Triệu là vậy. Sông Nam Triệu mới xuất hiện từ cuối thời Lê Trịnh (1592 - 1778) mà thôi. Hay sông Kiền Bái thời Đồng Khánh (1886) được tính từ ngã ba Nống (chỗ giao nhau của sông Kinh Thầy, sông Vận và sông Cấm thời nay) tới ngã ba sông Tam Bạc (tức khu vực bến phà Bính). Còn đoạn sông nối tiếp sông Kiền Bái là sông Cấm, được tính từ ngã ba sông Tam Bạc (khu vực phà Bính) xuôi xuống phía cửa biển với chiều dài vài cây số. Còn sông Cấm sau này bằng sông Kiền Bái cổ và sông Cấm cổ cộng lại.

       Vì vậy, sông Tam Bạc thời Nguyễn chỉ được tính từ ngã ba giang phận làng Hạ Lý (nay là phường Trại Chuối) hắt xuống tới sông Cấm với chiều dài chừng hơn bốn dặm (chừng hai cây số). Còn thời cách mạng (sau 1945), chỉ được tính từ ngã ba giang phận xã An Đồng (khu vực cầu An Dương II) tới sông Cấm (bến phà Bính) với chiều dài chừng ba cây số. Còn đoạn từ ngã ba giang phận phường Trại Chuối hắt lên phía trên là sông Rế (hay sông Trạm Bạc cũ). Còn các bài viết của một số tác giả thời nay ghi sông Tam Bạc bao gồm cả sông Trạm Bạc với chiều dài chừng 11 cây số là chưa có chứng cứ thuyết phục.

.

          NGỌC TÔ