/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

Văn xuôi

LỤC ĐẦU GIANG (六頭江), TỨC SÔNG LỤC ĐẦU

Có lẽ hầu hết người dân nước ta đều biết về sông Lục Đầu, vì ở sách tiếng Việt lớp Hai phổ thông đã có bài “Bóp nát quả cam”...

LỤC ĐẦU GIANG (六頭江), TỨC SÔNG LỤC ĐẦU

.

       Có lẽ hầu hết người dân nước ta đều biết về sông Lục Đầu, vì ở sách tiếng Việt lớp Hai phổ thông đã có bài “Bóp nát quả cam”, hay “Hội nghị quân sự cấp cao tại bến Bình Than thời Trần” ở sông Lục Đầu để bàn kế sách chống giặc Nguyên Mông… Song tại sao khúc sông này lại mang tên như vậy và ngày nay là những sông nào? Vì thời gian diễn ra sự kiện trên đã lùi xa đến nay 743 năm (1282 – 2025), mọi thứ đã thay đổi và đặc biệt là hầu hết các địa danh xưa nay đã khác xa. Nhưng ta có thể khẳng định rằng, từ thời Đồng Khánh (1886) trở về trước, thì các địa danh cũng như cấu trúc về các sông ngòi, kênh rạch, bến đò, ao hồ, sình lầy, đồng bãi… tại Việt Nam ít thay đổi hơn. Còn từ thời Pháp thuộc trở lại nay, thì bị thay đổi mỗi ngày một lớn hơn theo mục đích sử dụng của con người.  

       Theo bản đồ phủ Nam Sách (phủ này đầu Nguyễn gồm bốn huyện là Thanh Lâm, Thanh Hà, Tiên Minh và Chí Linh), trấn Hải Dương thời Đồng Khánh (1886), thì Lục Đầu giang (六頭江), tức sông Lục Đầu hay sông Sáu Đầu phần lớn nằm ở phủ này và một phần ở phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc. Vào thời điểm hiện tại, một số tác giả chưa chấp nhận với tên gọi là sông Sáu Đầu vì nó quá ngắn, nhưng thời phong kiến là như thế. Chúng tôi xin trích các tài liệu chính thống của triều đình nhà Nguyễn viết về sông Lục Đầu. Trang 470 sách “Hoàng Việt nhất thống chí” do Thượng thư bộ Binh là Lê Quang Định (1759 - 1813) viết vào năm 1806 có ghi:

       “Trấn Hải Dương phía Đông giáp Yên Quảng và biển lớn, Tây giáp Kinh Bắc, Nam giáp Sơn Nam Thượng và Hạ, Bắc giáp Lạng Sơn. Hàm Giang như cái bâu áo, Yên Quảng như phên dậu. Trấn thành đóng tại địa phận huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, đường vào kinh đô theo hướng Nam là 341.543 tầm 2 thước (tầm là đơn vị đo độ dài thời Lê – Nguyễn với độ dài chừng 2,5 mét), thành ra hơn 1.581 dặm (1 dặm bằng 444,47 mét). Đường đến thành Thăng Long theo hướng Tây là 25.526 tầm, thành ra hơn 118 dặm. Quản lãnh 4 phủ 18 huyện… Thống quản một sở tuần là Thuần Mỹ (Thanh Hà), 7 đồn phân thủ cửa biển là Nam Triệu, Cửa Cấm, Cửa Rào, Cửa Riêng, Cửa Họng (ở Đồ Sơn), Dương Úc và Cửa Ngải (Ngải Am)”.

       Hay “Về phong tục: Sỹ khí hùng hồn, tính dân cứng cỏi hung hãn, quen ưa việc kinh doanh, không màng lao động… Từ trấn thành (ở huyện Cẩm Giàng) di chuyển theo đường bộ mới đắp 444 tầm (1 tầm tương đương với 2.5 mét) với chiều rộng mặt đường là 3 tầm, hai bên đường là ruộng lúa. Tới sông Hàm với chiều rộng sông là 224 tầm, tục gọi là đò Hàm, sông sâu 3 tầm theo thủy triều lên xuống. Mùa đông xuân nước mặn mà trong, mùa hè thu ngọt nhưng đục. Đi lên ngả trên 7.518 tầm đến ngã ba sông Lâu Khê, tục gọi là ngã ba Lâu, bên bờ sông có đặt sở tuần, đi qua kênh Than, kênh Phổ Lại, kênh Cầu 4.925 tầm thì giáp với giang phận của trấn Kinh Bắc. Ở đoạn này nước chia làm 6 nhánh, tục gọi là sông Sáu Đầu…”

       Hay trang 467 sách “Đại Nam nhất thống chí” tập III có ghi về sông Lục Đầu như sau: “Sông cách huyện Chí Linh 14 dặm (1 dặm thời Nguyễn bằng 444,44 mét) về phía Nam, bên tả thuộc xã Phao Sơn, tổng Cổ Châu trong huyện. Bên hữu thuộc xã Phả Lại, tổng Đào Thông, huyện Quế Dương, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ở chỗ giáp giới tỉnh Đông và tỉnh Bắc. Sông này một chi từ sông Phượng Nhãn tỉnh Bắc Ninh chảy đến, một chi từ sông Thiên Đức chảy đến, một chi từ sông Chiêm Đức chảy đến, một chi từ sông Nhật Đức chảy đến, hợp nhau ở Bình Than, đến xã Lý Dương, xưa gọi là vụng Lão Nhạn, thế nước mênh mông rồi chia làm hai chi. Một chi từ bến đò Lưu Khê và chảy về phía Nam. Một chi từ sông Linh Hội chảy về phía Đông, ấy là sông Lục Đầu. Bãi giữa sông gọi là bãi Đại Than, hai chi phân tán ra nhiều ngả dọc ngang chằng chịt ở hai phủ Kinh Môn và Nam Sách rồi ra biển”.

       Còn trang 108 sách “Đồng Khánh địa dư chí” tập III viết về tỉnh Hải Dương có ghi: “Một dòng sông lớn do các sông ở tỉnh Bắc Ninh đổ chếch về phía Tây Bắc hợp thành sông Lục Đầu (từ sông Lục Đầu đến sông Lưu Khê dài 3 dặm), rộng trên dưới 100 trượng (1 trượng đương với 4 mét), triều lên sâu 3 trượng, chiều xuống sâu 2 trượng 5 thước. Sông Lục Đầu đến sông Lâu Khê chia làm hai dòng:

       - Một dòng chảy về phía Nam qua huyện Thanh Lâm đến phía Bắc thành tỉnh Hải Dương làm thành sông Hàm (Hàn) Giang.

       - Một dòng từ dòng nhánh Lâu Khê chảy về phía Đông, qua phía Bắc thành phủ Nam Sách, đến ngã ba sông Thủ Chân (đến đây rẽ ra một nhánh về huyện Đông Triều) lại chuyển sang ngã ba sông An Điền (đến đây lại rẽ ra một nhánh chảy về phủ Kinh Môn), đến xã (làng) Cổ Pháp làm thành sông Cổ Pháp, chảy tới chỗ giáp giới gữa hai ở huyện Kim Thành và Thanh Hà, dài 36 dặm, trong đó:

       - Đoạn sông từ Lâu Khê tới ngã ba Thủ Chân dài 29 dặm, rộng trên dưới 60 trượng. Triều lên sâu 3 trượng, triều xuống sau 2 trượng 5 thước.

       - Đoạn sông từ ngã ba Thủ Chân đến xã Cổ Pháp dài 7 dặm, rộng trên dưới 60 trượng. Triều lên sâu 3 trượng, triều xuống sau 2 trượng 5 thước”.

       Hay theo trang 59 sách “Đồng Khánh địa dư chí” tập II viết về tỉnh Bắc Ninh có ghi: “Sông chảy qua các xã Đại Than, Phù Than và Kênh Phố dài 5 dặm (1 dặm thời Nguyễn bằng 444,47 mét) 6 trượng (1 trượng tương đương với 4 mét) 4 thước. Cửa sông ở thượng nguồn rộng 1 dặm 172 trượng 6 thước. Triều lên sâu 9 thước, triều xuống sâu trên dưới 7 thước. Cửa sông hạ nguồn rộng 96 trượng 3 thước, triều lên sâu 1 trượng, chiều xuống sâu 8 thước. Giữa sông có bãi phù sa Nguyệt Bàn, từ trước đã có ngôi miếu bên trong thờ tranh tượng tam phủ”. Còn theo bản đồ hành chính tỉnh Bắc Ninh năm 1947 do người Pháp làm, thì bên hữu ngạn đoạn hạ lưu sông Đuống, từ phía trên về hạ lưu sông Lục Đầu ta gặp lần lượt các làng, sở ở tổng Vạn Ty huyện Gia Bình như sau: Vạn Ty, Vạn Tải, Ba Dương, sở Ba Dương, Đại Than và Mỹ Lộc.

       Theo sách “Tên làng xã  Việt Nam đầu thế kỷ XIX” do Viện Nghiên cứu Hán Nôm biên soạn, thì huyện Gia Định thuộc phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc, đến năm Minh Mạng thứ 4 (1823), vì triều đình nhà Nguyễn không muốn trùng tên với tỉnh Gia Định ở miền Nam, nên thì huyện Gia Định đổi thành Gia Bình thuộc phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc. Huyện này gồm 8 tổng với 68 xã (xã là đơn vị hành chính với 25 hộ dân, chúng tôi gọi là làng cho đỡ nhầm với xã sau này), sở. Trong đó, tổng Vạn Tư có liên quan tới sông Lục Đầu gồm 11 làng và 1 sở sau: Vạn Tư, Vạn Tải, Phồn Dương, Phù Than (浮灘), Tiểu Than (小灘), Đại Than (大灘), Văn Than (文灘), Kinh Bồ, Cao Trụ, Vạn Thọ và sở Phồn Dương.

       Vào thời Đồng Khánh (1886 – 1888), thì tổng Vạn Tư gồm 11 làng và 1 sở sau: Vạn Tư, Vạn Tải, Bà Dương, Phù Than (浮灘), Tiểu Than (小灘), Đại Than (大灘), Văn Than (文灘), Kênh Phố, Cao Trụ, Cao Thọ và sở Bà Dương. Sang đầu thế kỷ XX, thì tổng Vạn Tư đổi thành Vạn Ty gồm 12 làng, sở sau: Vạn Ty; Vạn Tải; Dàn Dương; Phù Than (浮灘); Tiểu Than (小灘), tên Nôm là Dung; Đại Than (大灘); Văn Than (文灘), tên Nôm là Nai; Kênh Phố, Cao Trụ, Cao Thọ (tên Nôm là Chỗ); Mỹ Lộc và sở Bái Dương.

       Như vậy, tới thời điểm đầu thế kỷ XX (1927), chúng tôi vẫn chưa thấy xã (làng) Bình Than ở tổng này. Nhưng theo bản đồ phủ Nam Sách thời Đồng Khánh (1886), thì ở giữa sông có hai bãi (đảo) cát, trong đó đảo cát lớn nằm về phía hạ lưu sông đối diện với sông Thiên Đức được ghi là Bình Than (平灘). Vì thế ta có thể hiểu hai đảo cát này mang tên Bình Than. Có lẽ đến thời Đồng Khánh (1886 - 1888), thì Bình Than chưa trở thành đơn vị hành chính cấp xã (làng), nên chưa được ghi ở các sách dư địa chí trên. Theo Hán tự thì hai từ Bình Than (平灘) có nghĩa nôm na là “mảnh đất ven nước bình yên”, chứ không như một số tác giả cho rằng khu vực này kinh doanh than. Nếu so với mặt bằng khu vực này thời nay, ta có thể hiểu “đảo cát nhỏ phía Bắc đã bị các trầm tích phù sa về sau bồi đắp cùng với phần hồ phía trên và thôn Bình Than được thành lập vào thời cách mạng. Nếu như đảo giữa sông mang tên Nguyệt Bàn này bằng núi đá, thì địa danh nơi đây thực sự ít thay đổi. Song nó là bãi phù sa (cát), nên ta chưa có cơ sở kết luận đảo Nguyệt Bàn tồn tại từ thời Trần tới nay. Hay theo số liệu về chiều dài hay rộng của sông Lục Đầu thời Đồng Khánh (1886 – 1888) tới nay (trong đó từ thời Trung Quốc và Việt Nam làm thủy điện trên sông Nhĩ (Hồng) thì lượng phù sa về không đáng kể) mới có chừng 135 năm đã có sự khác biệt với những con số xưa.

       Vì khu vực sông Lục Đầu này ngày nay do tỉnh Hải Dương và tỉnh Bắc Ninh quản lý, nên xác định “Hội nghị quân sự cấp cao tại bến Bình Than thời Trần” nằm ở thực địa tỉnh Hải Dương hay tỉnh Bắc Ninh là một điều cực kỳ khó. Chúng tôi chưa có bằng chứng xác thực địa điểm tổ chức hội nghị trên nằm ở thực địa tỉnh nào. Và thời gian đã lùi xa gần bảy thế kỷ rưỡi, nên ta cần phải có những “chứng cứ chấp nhận được”. Gần đây, có mỗi việc là ai đã thảo thư cho Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh đầu hàng ngày 30 tháng 4 năm 1975, những nhân chứng đang còn sống sờ sờ mà chẳng còn xác định được, nói gì việc đã xảy ra từ thời nhà Trần?

.

               Bản đồ phủ Nam Sách thời Đồng Khánh (1886 - 1888)

.

       Để khám phá con sông huyền thoại này, tôi mời các du khách lên “con thuyền du lịch” xuất phát từ phía Tây sông Lục Đầu và di chuyển theo chiều kim đồng hồ ta gặp các cửa sông ở thượng lưu như sau:

       1- Đầu tiên ta gặp Thiên Đức giang (天德江), tức sông Thiên Đức, một phụ lưu của sông Nhị (từ 1890 là sông Hồng). Theo bản đồ hành chính tỉnh Bắc Ninh năm 1890, năm 1909 do người Pháp làm, thì con sông này mang tên Canal des Rapides, tức kênh đào “Thác Gềnh”. Còn theo bản đồ hành chính tỉnh Bắc Ninh do người Pháp làm năm 1947, thì con sông này mang tên Đuống. Cái tên sông Đuống bắt nguồn từ khu vực thượng lưu, tức khu vực làng Hoa Am (tên Nôm là Đuống) do Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sáng lập và đặt tên vào thời kỳ ông còn đang làm đại quan thời Mạc ở kinh thành Thăng Long. Người dân Hoa Am (từ 1841 là Thanh Am, thời nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội) nơi đây coi mình là Am thứ 19 của lục tổng khu dưới huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Thời cách mạng (sau 1945) con sông này mang tên Đuống.

       2- Tiếp tục ngược lên phía thượng lưu sông một đoạn ta gặp Chiêm Đức giang (霑德江), tức sông Chiêm Đức. Theo bản đồ hành chính tỉnh Bắc Ninh năm 1890, năm 1909, năm 1947 do người Pháp làm, thì con sông này mang tên Cầu. Còn vào thời cách mạng (sau 1945) sông này vẫn mang tên Cầu.

       3- Tiếp tục ngược lên phía trên một đoạn ta gặp Nhật Đức giang (日德江), tức sông Nhật Đức. Theo bản đồ hành chính tỉnh Bắc Ninh năm 1890, năm 1909, năm 1947 và bản đồ tỉnh Bắc Giang năm 1909 do người Pháp làm, thì con sông này mang tên Thương. Còn vào thời cách mạng (sau 1945) sông này vẫn mang tên Thương.

       4- Tiếp tục di chuyển theo kim đồng hồ một đoạn ta gặp Phượng Nhãn giang (鳳眼), tức sông Phượng Nhãn chảy qua huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc. Theo bản đồ hành chính tỉnh Bắc Giang năm 1909 do người Pháp làm, thì con sông này mang tên Lục Nam. Gọi theo Hán tự là Lục Nam giang (陸南), tức sông Lục Nam. Ở trường hợp này, từ Lục (陆) có nghĩa là đất liền, không phải nghĩa là Sáu (Lục) hay Trong. Còn vào thời cách mạng (sau 1945) sông này vẫn mang tên Lục Nam.

       5- Như vậy ta đã tham quan hết bốn đoạn sông phía thượng lưu sông Lục Đầu, tiếp tục ta di chuyển theo chiều kim đồng hồ xuống phía hạ lưu một đoạn, ta gặp Cổ Chu (Châu) giang (古邾), tức sông Cổ Chu. Và còn có tên khác nữa là Kinh Sài giang (涇柴), tức sông Kinh Sài, hay gọi tắt là Sài Giang (柴), tức sông Sài. Sau này đọc theo âm Nôm của từ Sài là Thầy, nên mới có sông Kinh Thầy là vậy. Các bản đồ hành chính tỉnh Hải Dương năm 1890, năm 1909 không thấy ghi tên sông này. Theo bản đồ đạo Đông Triều năm 1890, thì sông này mang tên Kinh Tay, tức Kinh Thầy. Vào thời kháng chiến chống Pháp, theo bản đồ hành chính tỉnh Hải Dương năm 1947 do người Pháp làm, thì con sông này mang tên Kinh Thầy. Còn vào thời cách mạng (sau 1945) sông này vẫn mang tên Kinh Thầy.

       6- Tiếp tục ta di chuyển về Nam một đoạn ta gặp Lâu Khê giang (搂溪), tức sông Lâu Khê chảy từ làng Lâu Khê, tổng La Đôi, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách về phía Nam một đoạn và nối tiếp là sông Hàm. Theo bản đồ hành chính tỉnh Hải Dương năm 1890, năm 1909, năm 1947 do người Pháp làm, thì con sông này mang tên Thái Bình. Còn vào thời cách mạng (sau 1945) sông này vẫn mang tên Thái Bình.

           (Còn nữa)

.

          NGỌC TÔ