VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
Văn xuôi
SÔNG PHÚ NÔNG Ở PHÍA ĐÔNG ĐỀN HÙNG
Ngày 08 tháng 9 năm 1891, huyện Sơn Vi được cắt về Hưng Hóa để thành lập tỉnh. Năm 1903 tỉnh Hưng Hóa đổi tên thành tỉnh Phú Thọ.SÔNG PHÚ NÔNG Ở PHÍA ĐÔNG ĐỀN HÙNG
Thời gian gần đây một số cơ quan báo chí có nhắc đến sông Phú Nông, bởi Bách khoa toàn thư ngày nay ghi tên chữ của sông Luộc là Phú Nông. Trong đó, phần “Trong thi ca” có bài thơ chữ Hán của Đại thi hào Nguyễn Du (1766 - 1820) viết về sông Phú Nông (tác giả Thảo Nguyên dịch), buộc chúng tôi phải tìm lại bản gốc và dịch lại như sau:
Nguyên văn chữ Hán (Vũ Hoàng):
渡富農江感作
農水東流去
滔滔更不回
青山傷往事
白髮復重來
春日商船合
西風古壘開
遊人無限感
芳草遍天涯
Phiên âm Hán Việt (Vũ Hoàng):
Độ Phú Nông Giang cảm tác
Nông thủy đông lưu khứ,
Thao thao cánh bất hồi.
Thanh sơn thương vãng sự,
Bạch phát phục trùng lai.
Xuân nhật thương thuyền hợp,
Tây phong cổ lũy khai.
Du nhân vô hạn cảm,
Phương thảo biến thiên nhai.
Dịch nghĩa (Vũ Hoàng):
Qua Phú Nông Giang cảm tác
Nước sông Phú Nông chảy về Đông
Cuồn cuộn đi không trở lại
Nhìn ngọn núi xanh mà thương chuyện cũ
Nay ta đầu đã bạc mới trở lại chốn này.
Ngày xuân, thuyền buôn qua lại tấp nập
Gió Tây thổi thành cũ bỏ trống
Khách du hành cảm tình chan chứa
Cỏ thơm xanh rợn chân trời.
Dịch thơ (Thi An):
Qua Phú Nông Giang cảm tác
Xuôi về Đông Phú Nông Giang
Nước cuồn cuộn chảy mênh mang mơ hồ
Nhìn non xanh nhớ chuyện xưa
Bạc đầu nay mới tới bờ thân thương
Thuyền xuân tấp nập dặm trường
Gió Tây thành cũ thổi buồn sang nhau
Khách xuân chan chứa nguyện cầu
Cỏ thơm xanh tận xa sau chân trời.
Bản đồ sông Hồng ngày nay qua thành phố Việt Trì. Khúc ghi Sông Hồng là sông Phú Nông thời xưa
.
Đền Hùng thời nay
Qua bài thơ trên, ta thấy địa danh, mà nhà thơ Nguyễn Du đi qua ở tuổi “đầu đã bạc”, tức đầu thời Nguyễn (1802 -1945). Là nơi có sông, có núi, dãy núi này có nhiều chiến tích (vãng sự - 往事), nơi có thành quách cũ đã từng nổi tiếng một thời, nhưng nay đã hoang phế. Tuy nhiên dòng sông này có bến giao thương, thuyền bè đi lại tấp nập. Như vậy, ta có thể khẳng định sông Phú Nông không phải là sông Luộc vì không phù hợp với những hoạt cảnh nội dung của bài thơ.
Chúng tôi đã tìm ở các tư liệu cổ từ năm 1945 trở về trước, nhưng không thấy tài liệu nào ghi sông Lục (tên Nôm là Luộc) còn có tên khác là Phú Nông. Hay chúng tôi đã gặp gỡ với những cư dân có nhiều đời sinh sống ở hai bên tả và hữu ngạn sông Luộc, nhưng đều nhận được câu trả lời là “chưa từng nghe sông Phú Nông ở đây bao giờ…”?
Theo bản đồ phân phủ Thái Bình, tỉnh Nam Định thời Đồng Khánh (1886), thì có nhánh sông nhỏ nối từ khu vực bến Hiệp của sông Lục (tên Nôm là Luộc) ở huyện Vĩnh Lại vào huyện Quỳnh Côi là Diên Nông (nay là sông Yên Lộng), gọi tắt là sông Nông, nên người viết Bách khoa toàn thư ngày nay có thể nhầm sông Nông thành sông Phú Nông chăng?
Qua thời gian nghiên cứu, chúng tôi tìm được khúc sông mang tên Phú Nông, phù hợp với những tiêu chí, mà thi nhân Nguyễn Du đã phản ánh, qua áng thơ trên là đoạn chảy từ Tây sang Đông, tức từ trang Phú Nông, huyện Phù Ninh, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây tới ngã 3 sông Hạc, nay thuộc thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đoạn sông này thời Nguyễn Du (1766 - 1820) gọi là Phú Nông, thời Đồng Khánh (1886) gọi là sông Hạc, còn có tên gọi khác là sông Thao, sau là sông Hồng.
Qua nội dung thi phẩm trên, ta thấy sông này chảy về hướng Đông, còn từ Phú Nông Giang nhìn về phía Tây là đền Hùng Vương, thuộc xã Hi Cương, huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao, trấn Sơn Tây. Để giúp bạn đọc hiểu rõ thêm về lịch sử hành chính kinh đô đầu tiên của nước ta, chúng tôi có thể tóm tắt như sau: Thời Hùng Vương (258 TCN trở về trước) khu di tích đền Hùng ngày nay thuộc địa danh Hi Cương (đồi Hi), châu Phong (峯州) hay bộ Văn Lang (文郎). Thời Tần Thủy Hoàng (259 TCN - 210 TCN) thuộc quận Voi (象郡 - Tượng Quận), thời Hán (206 TCN - 220) thuộc huyện Mê Linh (麊泠 hoặc 麋泠), chỉ Giao (交趾). Thời Đường (618 - 907) thuộc châu Phong, phủ An Nam Đô Hộ (安南都護府). Thời 12 sứ quân (966), thì địa danh nơi đây do Kiều Công Hãn tự xưng là Kiều Tam Chế giữ châu Phong.
Địa danh Sơn Vi (núi Vi) xuất hiện từ thời Đinh – Lý (970 - 1225) thuộc châu Phong. Thời Trần (1225 - 1400) và thời thuộc Minh (1407 - 1427), Hi Cương vẫn thuộc huyện Sơn Vi, châu Thao Giang, phủ Tam Giang. Thời Lê sơ (1428 - 1527) huyện Sơn Vi thuộc phủ Thao Giang, lộ Quốc Oai, sau đổi thành thừa tuyên, xứ rồi trấn Sơn Tây. Thời Mạc (1527 - 1592) huyện Sơn Vi thuộc phủ Thao Giang, đạo Sơn Tây. Thời Lê Mạt (1592 - 1788), vì kiêng tên húy (tên khai sinh) của chúa Trịnh Giang (1729 - 1740), phủ Thao Giang đổi thành phủ Lâm Thao, trấn Sơn Tây. Từ năm Tự Đức thứ 5 (1852), thì phủ Lâm Thao kiêm nhiếp huyện Sơn Vi vẫn thuộc tỉnh Sơn Tây.
Ngày 08 tháng 9 năm 1891, huyện Sơn Vi được cắt về Hưng Hóa để thành lập tỉnh. Năm 1903 tỉnh Hưng Hóa đổi tên thành tỉnh Phú Thọ. Năm 1919 triều đình nhà Nguyễn bỏ cấp trung gian (phủ) và huyện Sơn Vi sát nhập vào phủ Lâm Thao thành huyện Lâm Thao. Vì đây là một huyện lớn, sau đó vài năm được nâng lên cấp phủ. Từ thời cách mạng (sau 1945), thì phủ Lâm Thao thành huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Ngày 26 tháng 01 năm 1968, thì Phú Thọ và Vĩnh Phúc hợp nhất thành tỉnh Vĩnh Phú. Năm 1977 huyện Lâm Thao sát nhập với huyện Phù Ninh thành huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Năm 1999 huyện Phong Châu lại tách thành hai huyện là Lâm Thao và Phù Ninh. Năm 2006 xã Hi Cương (đồi Hi) của huyện Lâm Thao gia nhập vào ngôi nhà chung “thành phố ngã 3 sông” (tức Việt Trì), tỉnh Phú Thọ…
NGỌC TÔ
.
Chú thích ảnh:
1- Đền Hùng tại thành phố Việt Trì
2- Bản đồ sông Hồng (chỗ ghi sông Hồng là sông Phú Nông thời Lê Trịnh) ngày nay
Các tin khác
-
ĐẤT CẢNG HẢI PHÒNG
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
TẠI SAO LÀNG CAN TRÌ LẠI ĐỔI THÀNH HU TRÌ?
-
ĐỊA DANH “ĐẠI THAN” THỜI TRẦN NẰM Ở ĐÂU?
-
SÔNG BẠCH ĐẰNG CÒN GỌI LÀ SÔNG RỪNG (DẦNG)?
-
"DỌN VƯỜN II" VỀ VIỆC TÊN PHƯỜNG, XÃ THEO SỐ THỨ TỰ VÀ ĐÁNH SỐ NHÀ
-
SÔNG TAM BẠC Ở HẢI PHÒNG CÓ TỪ BAO GIỜ?
-
CHÙA VẼ HẢI PHÒNG CÓ TỪ BAO GIỜ?
-
“DỌN VƯỜN” TÊN CÁC DI TÍCH