/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

Văn xuôi

SÔNG CẤM, HAY SÔNG CỬA CẤM?

Chỉ còn hơn một tháng nữa là thành phố Hải Phòng kỷ niệm 534 năm ngày sinh của Danh nhân Văn hóa Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (13/05/1491 – 13/05/2025)

SÔNG CẤM, HAY SÔNG CỬA CẤM?

.

       Chỉ còn hơn một tháng nữa là thành phố Hải Phòng kỷ niệm 534 năm ngày sinh của Danh nhân Văn hóa Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (13/05/1491 – 13/05/2025) và 70 năm ngày giải phóng Hải Phòng (13/05/1955 – 13/05/2025). Tôi thấy trang 7 số 20640 báo Hải Phòng xuất bản ngày 01/04/2025 ở mục “Từ bến Sáu Kho đến cảng trung chuyển quốc tế” có ghi: “…từ bến Ninh Hải của làng chài Cửa Cấm…”. Hay câu ca: “Hải Phòng có bến Sáu Kho. Có sông Cửa Cấm có lò xi măng”… Hay ở nhiều sách khác, thậm chí ở một số bản đồ sau này cũng ghi sông Cửa Cấm.

       Tôi có thể khẳng định trong các văn bản Hán Nôm, hay từ điển tiếng Việt không thể có từ vừa là sông lại vừa là cửa được. Hai từ Cấm giang (), tức sông Cấm, còn Cấm giang khẩu (江口), tức cửa sông Cấm, gọi tắt trong văn nói là cửa Cấm. Nếu ta gọi cấm khẩu (), tức cửa Cấm, thì nó còn một ngữ nghĩa khác nữa là “bịt mồm”. Song do cách gọi tắt trong văn nói vẫn dùng cửa Cấm là vậy. Dùng mãi thành quen, rồi sau này khi dùng chữ Latin mới dùng ba từ sông cửa Cấm là vậy. Giống như thời nay một số nhà báo, nhà văn vẫn dùng các từ như đường quốc lộ, ngày sinh nhật, hay cây cổ thụ… là chưa đúng ngữ pháp tiếng Việt. Còn câu ca ở Hải Phòng là “Hải Phòng có bến Sáu Kho. Có sông Tam Bạc có lò xi măng” chứ không phải sông Cửa Cấm.

        Mất khá nhiều thời gian trong quá trình nghiên cứu về mảnh đất ven biển Bắc Bộ, tôi mới phát hiện ra việc đặt tên cho các sông ngòi, kênh rạch của ông cha ta từ xa xưa. Theo cách đặt tên truyền thống thời phong kiến (từ thời Đồng Khánh trở về trước), thì ông cha ta lấy địa danh phía thượng lưu làm tên cho sông. Ví như, sông Cấm là con sông nối tiếp sông Kiền Bái được tính từ giáp Cấm xã Da Viên, tổng Da Viên (từ lúc dùng chữ Latin là Gia Viên), huyện An Dương hắt xuống tới phía của biển, tức từ phường Minh Khai, quận Hồng Bàng (bến phà Bính) ngày nay xuôi xuống tới phía biển với chiều dài chừng vài cây số. Hay sông Nam Triệu được tính từ xã Nam Triệu (nay là đảo Vũ Yên), tổng Thủy Đường, huyện Thủy Đường, nay được tính từ ngã ba sông Ruột Lợn và sông Bạch Đằng xuôi xuống phía biển. Hay sông Kim được tính từ xã Kim Ngân, tổng An Bồ, huyện Vĩnh Bảo, nay là khu vực từ xã Giang Biên huyện Vĩnh Bảo xuôi xuống phía của biển với chiều dài chừng hơn 20 cây số. Hay An Đà (安沲), tức nhánh sông mang tên An được bắt nguồn từ xã An Dương, tổng An Dương, huyện An Dương, nay là khu vực gần đền Tam Kỳ, phường Cát Dài, quận Lê Chân chảy lòng vòng tới hồ An Biên, phường An Đà rồi ra sông Lạch Tray. Hay Cao Kênh (高涇), tức con kênh mang tên Cao, bắt nguồn từ sông Kiền Bái, nay là sông Cấm ở đoạn làng Cao Kênh, xã Hợp Thành, huyện Thủy Nguyên chảy lòng vòng qua đầm Trịnh Xá và đổ ra gần ngã ba sông Cấm.v.v

        Từ thời Pháp thuộc (cuối thế kỷ XIX) thì việc đặt tên cho sông ngòi làm ngược lại cách đặt tên truyền thống, tức lấy địa danh phía hạ nguồn làm tên cho sông. Ví như, sông Kim cổ đi qua địa giới phủ Thái Bình (huyện Thụy Anh) tỉnh Nam Định có dăm cây số nhưng sông này lại mang tên Thái Bình. Hay sông Cấm vào thời Pháp thuộc được tính từ cửa biển ngược lên tới ngã 3 Nông, giáp danh của sông Vận, sông Kinh Thầy và sông Cấm thời nay, tức sông Cấm sau này bằng sông Cấm và sông Kiền Bái thời phong kiến cộng lại với chiều dài trên ba mươi cây số… Và, tất cả các sông nhỏ đổ ra sông lớn thì khu vực ngã 3 gọi là giang khẩu (江口), tức cửa sông, còn sông đổ ra biển gọi là hải khẩu (海口), tức cửa biển. Vì thế khu vực sông Tam Bạc đổ ra sông Cấm được gọi là cửa sông Cấm, giống như sông Vân Châu, nay là sông Ruột Lợn đổ ra sông Nam Triệu, được gọi là cửa sông Nam Triệu. Còn cửa biển Nam Triệu hay cửa biển Cấm ở cách xa cửa sông Nam Triệu hay cửa sông Cấm chừng chục cây số.  

       Hay hiện nay một số sách báo không ghi sông Cấm, mà ghi là sông Gia Viên, tôi thấy không ổn. Chẳng hạn sông Do không thể ghi là sông Định Vũ được, hay sông Rừng không thể ghi là sông An Hưng hoặc sông Yên Hưng được. Vì những tên sông kia đã được ghi ở địa bạ cổ hay bản đồ rồi, nhưng ta có thể hiểu ngầm là như vậy thì được. Mong những người viết sách thời nay quan tâm hơn tới việc ghi thế nào cho chính xác các địa danh mà cha ông ta đã đặt tên.

 

NGỌC TÔ