VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
Văn xuôi
“DỌN VƯỜN” TÊN CÁC DI TÍCH
Trước đây ở Báo Văn nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam thường có mục “Dọn vườn” khá lý thú, song đã khá lâu tiết mục này không còn tồn tại.“DỌN VƯỜN” TÊN CÁC DI TÍCH
.
Trước đây ở Báo Văn nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam thường có mục “Dọn vườn” khá lý thú, song đã khá lâu tiết mục này không còn tồn tại. Ở phần “Dọn vườn” này, tôi chỉ nêu một số từ, cụm từ hay tên gọi thế nào cho phù hợp. Một số miếu cổ, sau gọi là đền, thời nay gọi là di tích với những cái tên ngây ngô “nửa Ta nửa Tàu” không đúng ngữ pháp tiếng Việt, thậm chí có những di tích được cấp bằng di tích cấp quốc gia, hay cấp quốc gia đặc biệt. Ví như: Từ Lương Xâm ở Hải Phòng; Mộ Cự Thạch Hàng Gòn ở Đồng Nai; Từ Vũ thôn Bùi Bến ở Bắc Giang; Đền Nghè ở Hải Phòng; Rú Thành ở Nghệ An; Hải Vân quan ở Thừa Thiên Huế; Hưng Phúc tự; Từ chính Nghĩa Xá, Khu di tích Bạch Đằng Giang ở Hải Phòng.v.v đều chưa đúng ngữ pháp tiếng Việt. Vì vậy các nhà văn, hay các giảng viên dạy tại các trường đại học, thậm chí những người ký các quyết định cấp bằng di tích… nếu không có kiến thức về Hán Nôm, chắc chắn cũng bó tay. com.
Có những từ Hán được Nôm hóa, được người Việt chấp nhận và có trong Từ điển tiếng Việt như từ "nhất", "nhị" chẳng hạn, thì mới để nguyên. Còn viết theo phiên âm chữ Hán cho đúng phải là: Lương Xâm từ, nghĩa tiếng Việt là miếu thờ (hay đền) Lương Xâm, nên tiếng Việt phải ghi là Đền Lương Xâm (di tích này ở sách "Đồng Khánh địa dư chí" ghi là đền Lương Xâm); Cự thạch Hàng Gòn mộ, nghĩa tiếng Việt là Mộ đá lớn Hàng Gòn, nên tiếng Việt phải là Mộ đá lớn Hàng Gòn; Nghĩa Xá chính từ, nghĩa tiếng Việt là đền (hay điện) chính Nghĩa Xá; Rú Thành, nghĩa tiếng Việt là thành Rú; Vũ từ Bùi Bến thôn, nghĩa tiếng Việt là đền Vũ thôn Bùi Bến; Hải Vân quan, nghĩa tiếng Việt là cửa ải (hay cửa ô) Hải Vân, nên di tích này thời nay phải là cửa ải Hải Vân; Đền Nghè, nghĩa tiếng Việt là đền (hay miếu) thờ Tiến sỹ Nho học, dân gian có câu “Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng”; Hưng Phúc tự, nghĩa tiếng Việt là chùa Hưng Phúc. Hay Bạch Đằng giang di tích khu, nghĩa tiếng Việt nôm na là Khu di tích sông Bạch Đằng và địa danh này phải mang tên Khu di tích sông Bạch Đằng.v.v. Tất cả các chữ: Từ, Thạch, Cự, Tự hay Giang… đều là chữ Hán.... chưa được Nôm hóa.
Hay di tích ATK chợ Đồn thuộc tỉnh Bắc Cạn, ở đây ba từ “ATK” phải tra trên mạng ra mới biết là chữ viết tắt của “an toàn khu”, nhưng ta có thể hiểu theo một nghĩa khác… và bắt buộc các tên di tích không được viết tắt… Cũng trong phạm trù này, rất nhiều các nhà văn, nhà báo ngày nay dùng các từ như: “Đường quốc lộ”, “ngày sinh nhật”, “cây cổ thụ”,… chẳng khác nào quý vị viết “nước Việt Nam quốc”. Nếu viết đúng ngữ pháp tiếng Việt phải là quốc lộ, sinh nhật hay cổ thụ thôi, vì theo Hán tự thì “lộ” nghĩa là đường, “nhật” là ngày và “thụ” là cây. Nhưng cũng có địa danh đã được Nôm hóa từ xưa có thể chấp nhận được. Ví như Hạ lý, hay Thượng lý, tức làng Hạ (Dưới), hay làng Thượng (Trên). Sau này gọi địa danh bằng 2 từ, nên mới có làng Hạ Lý, hay làng Thượng Lý là vậy. Hay câu ca “Bà Trưng quê ở Phong Châu”, từ “châu” ở đây là đơn vị hành chính cấp huyện thời phong kiến tại miền núi, còn “động” là đơn vị hành chính cấp làng. Vào thời phong kiến nước ta dùng chữ Nho, nếu gọi câu ca trên thì còn chấp nhận được, chứ từ thời cách mạng (sau 1945) phải viết là “Bà Trưng quê ở châu Phong” mới đúng.
Hay có một lỗi mà rất nhiều người mắc phải dùng hai từ "không có" như: "Tôi không có vợ; Tôi không có nhà; Tôi không có xe hơi; Tôi không có vàng bạc... Nếu học sinh, sinh viên ở Trung Quốc trả lời hai từ trên sẽ bị thầy cô giáo cho điểm kém nhất. Tất cả các câu trên đều tối nghĩa và chưa đúng ngữ pháp tiếng Việt, mà phải viết là "chưa có" hay "không thể có"...
Cũng liên quan tới việc “dọn vườn”, chúng tôi đưa ra vấn đề khác liên quan tới thời gian. Ví như công văn của cơ quan trung ương cử một phái đoàn đi công tác tại một quốc gia X nào đó với thời gian 3 ngày, từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 17 tháng 4, tức là từ giữa đêm ngày 14 tháng 4 đến giữa đêm ngày 16 tháng 4, tức chỉ có 48 tiếng (2 ngày). Như vậy quyết định trên phải ghi đến hết ngày 17 tháng 4, hoặc đến ngày 18 tháng 4 thì mới đúng. Cũng giống như từ ngày 01/01/2025 đến ngày 31/12/2025 là chưa đủ một năm, mà phải ghi là đến hết ngày 31/12/2025 hoặc đến ngày 01/01/2026 mới chính xác.
Cũng từ cách dùng từ cẩu thả như trên, trước đây khi ký kết Hiệp định Hợp tác Học tập Lao động giữa hai chính phủ Việt Nam và Liên Xô cũ ghi “thời hạn làm việc của công dân Việt Nam đến 5 năm”, trong đó bản tiếng Nga dùng giới từ ДO, còn bản tiếng Anh dùng giới từ TO, tức chỉ có 4 năm thôi. Không biết làm cách nào giải quyết khi Nghị định được kí từ mấy năm trước, Đại sứ quán Việt Nam tại Matxcơva phải nhờ tới Ban Đối ngoại Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tiếp cận giùm với Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô Ligachop và nhờ ông giúp, sau đó mãi mới được giải quyết. Tôi nêu một ví dụ như vậy để bạn đọc hiểu thêm về cách dùng từ “đến” và “đến hết” sao cho chuẩn.
(Còn nữa)
THI NGỌC
Các tin khác
-
ĐẤT CẢNG HẢI PHÒNG
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
TẠI SAO LÀNG CAN TRÌ LẠI ĐỔI THÀNH HU TRÌ?
-
ĐỊA DANH “ĐẠI THAN” THỜI TRẦN NẰM Ở ĐÂU?
-
SÔNG BẠCH ĐẰNG CÒN GỌI LÀ SÔNG RỪNG (DẦNG)?
-
"DỌN VƯỜN II" VỀ VIỆC TÊN PHƯỜNG, XÃ THEO SỐ THỨ TỰ VÀ ĐÁNH SỐ NHÀ
-
SÔNG TAM BẠC Ở HẢI PHÒNG CÓ TỪ BAO GIỜ?
-
CHÙA VẼ HẢI PHÒNG CÓ TỪ BAO GIỜ?
-
SÔNG PHÚ NÔNG Ở PHÍA ĐÔNG ĐỀN HÙNG