/Cỏn con một sợi lông mày. Mà đem cột trái đất này vào anh/ Thơ Trần Mạnh Hảo

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

Về thơ văn bạn bè

NGUYỄN TRÁC, KHOẢNG TRONG XANH

Nguyễn Trác là giọt nước, là một khoảng trong xanh của hồ, của sông… mà ta có thể nhận ra biển khơi đấy chứ, phải không?

NGUYỄN TRÁC, KHOẢNG TRONG XANH

Nguyên An


Kết quả hình ảnh cho khoang trong xanh thơ Nguyễn Trác

Đã bao lần nhớ nhau, ta lang thang tìm nhau ở góc phố này, bờ đê nọ. Thú vị và bồi hồi nữa, là tìm đọc nhau, mà ngẫm nghĩ, có khi là cũng không gọi điện và viết thư cho nhau nữa, cứ gậm nhấm một mình… Lang thang cùng những trang viết ấy, tôi nhặt được mấy dòng của nhà thơ Nguyễn Trác, thấy ý chung không hẳn mới với mình, nhưng cách diễn đạt của ông thì hơi khác với số đông. Ông viết:

“Càng ngày thấy làm thơ viết văn càng khó. Cái khó đầu tiên là ta đã có đủ một tình yêu nồng ấm và bền bỉ dành cho nó không. Thứ hai, khi viết có trung thực được với chính mình, khi sống có cảm nhận và hiểu được bản chất đời sống quanh mình?

Tài năng là trời cho, sự nổi tiếng có khi là duyên số nhưng những nỗ lực lao động là bắt nguồn từ ý chí cá nhân.Thế mà nay sao thấy nhiều người dễ dàng quá.”

Xưa nhiều thi nhân văn gia đã từng nghĩ như Nguyễn Trác, gần đây, các vị như Ma Văn Kháng, Vương Trí Nhàn… cũng ý na ná như vậy. Nhưng cái lối diễn đạt có đầu tiên rồi sang thứ hai, rõ ràng, thứ tự, gợi vẻ ngăn nắp của cả một quá trình có chiêm nghiệm, cân nhắc là dấu hiệu của Nguyễn Trác rồi. Đã thế, kết thúc mấy lời “tự bạch” trong Nhà văn Việt Nam hiện đại, in lần thứ IV, năm 2010 bởi NXB Hội Nhà văn này (tr. 746), ông lại có một câu ngỡ như “lạc đề”: “Thế mà nay sao thấy nhiều người dễ dàng quá.”

Ai đó không biết hết chuyện này chuyện kia, không hiểu rõ hiện tượng C với thực trạng D, như tôi, như anh, như chị, thì cũng là thường, chứ sao? Nhưng xin nhớ lại: Nguyễn Trác vốn là người tuổi hai mươi đã từng ở chiến trường sau dăm năm dạy học, rồi hoạt động văn nghệ ở một vùng cam go, có nhiều cây bút đặc sắc là Quảng Nam-Đã Nẵng thời bao cấp nghiệt ngã, kế đó, học Trường Viết văn Nguyễn Du (khóa II) xong, lại quay về Đà Nẵng , cho đến đầu năm 1988 mới chuyển hẳn ra Hà Nội, làm biên tập sách, rồi tạp chí, đứng vị trí Tổng biên tập. Nhắc qua thế, để có thể nói rằng Nguyễn Trác lăn lộn với cuộc sống, tiếp xúc với bạn văn thơ rất nhiều, rất nhiều rồi, mà ông vẫn ngạc nhiên “sao thấy nhiều người dễ dàng quá.”

Sự “chưa hiểu được” một góc sự đời, một ít người viết của ông Tổng biên tập tạp chí Nhà văn của Hội Nhà văn này khiến ta cũng nên tìm hiểu về ông hơn, rồi biết đâu, lại biết thêm hiểu thêm nhiều chuyện khác nữa ấy chứ.

Tìm hiểu một ý của nhà thơ, chi bằng cứ đọc thơ của ông. Người ta vẫn nói thơ của đấng bậc hay thơ của sự ngẫu hứng thôn làng, đều có chỗ giống nhau, là bức kí họa diện mạo, tính hạnh của người làm ra nó mà thôi, ta là ta nhất, người ấy là người ấy đấy, qua trang thơ của ông ta, bà ta mà.

Trở lại hai đoạn tự bộc bạch ngắn của Nguyễn Trác ở trên, ta thấy dấu vết của một thầy dạy Toán ở ông, ấy là cách diễn đạt mấy ý nghĩ về nghề văn của ông, có thứ nhất, rồi có thứ hai…

Thầy giáo Toán mà làm thơ, thành nhà thơ, như Vương Trọng, Đặng Hấn, Lê Quốc Hán… và Nguyễn Trác, cũng đã thành một nhóm, với đặc điểm riêng, là cấu trúc bài thơ của các ông thường rất ngay ngắn. Mở đầu có vẻ như bâng quơ chợt thấy chợt cảm thì lia bút mà ra…; kết thúc có vẻ mở, để ai muốn nghĩ gì tiếp đó thì nghĩ, nhưng thật ra, tác giả đã gợi, đã dẫn người đọc hết cả rồi! Người đọc có tin hay không tin, có ồ à lên hay chưa, cũng còn có thể, nhưng cái gọi là có thể này là rất hẹp. Không tin, bạn thử đọc thêm, đọc tiếp mấy ông này mà xem. Này là cấu trúc, cấu tứ của thơ Nguyễn Trác, ở một bài dài - bài Một ngày thành phố, mở đầu:

Ngày đi làm/Vòng một lượt Hồ Gươm…

Đây Hồ Gươm/Huyền thoại sáu trăm năm…

 

Các câu/đoạn ở giữa:

Những ông già sớm sớm chạy đua với thời gian trên đồng hồ Bưu điện/Cô gái tan ca chải lại mái đầu/Áo bạt hoa lộc vừng trái tim mười tám tuổi/Hòa vào bình minh những chú chim câu…

Bên lịch sử người già /Có lịch sử tơ non hiểu hiện và: Đây Hồ Gươm/Những con đường thân thiện/Chàng trai quê ra bán rong đồ nhựa/Mang tất cả sự tương phản thời mình vào tháp cổ trú mưa…

 

rồi kết thúc: Ngọn gió nhắc người anh hùng Lê Lợi/Khi ngang qua bầu trời/Đây Đông Đô đây Thăng Long đây Hà Nội…/Đây một ngày thành phố lên ngôi.

Ở một bài khác-“ Phố đê”- có độ dài vừa phải, xin chép cả ra đây:

 

Quán bún ốc khiêm nhường/ Một góc lặng im trưa /Người xích lô già rít xong điếu thuốc lào bạc trắng/Ngủ ngồi trong tiếng sấm mưa

 

Âm nhạc cũ và phô/Con đường lồi lõm hạ và thu

Những ngôi nhà thấp hơn cát bụi /Cùng nỗi buồn Âu Cơ

 

Ở bên trong nét quê mùa bỗ bã Em chút gì như của tuổi thơ

/Và ẩn dưới con đê bị biến thành phố xá /Có chuyện tình từ Tản Viên xưa ?

 

Cả hai bài trên, đều theo lối tả và kể bình thường. Khi tả và kể nhà thơ đã đưa được vào thơ nhiều chi tiết sống động qua sự chọn lựa kĩ của lối tư duy toán học hơn là sự chọn lựa của ngẫu sự “thấy gì kể nấy, thấy gì tả nấy”. Lối tư duy không lan man này được cái kết của bài chở được chiều sâu của ngẫm ngợi, nên đã vừa gợi cho liên tưởng có cơ được lan tỏa, vừa “định hướng” rất rõ, rằng con đê ngày nào, giờ đang biến thành phố xá, thì vẫn ấp ủ trong nó tâm tình của xa xưa. Đổi mới là tự nhiên, đương nhiên, mà trong cái tất nhiên vẫn thấp thoáng nguồn mạch, hồn cốt tiên tổ đấy! Chất ông giáo của Nguyễn Trác trong thơ hiện ra, cũng là từ lối cấu trúc tròn vành rõ ý ở mỗi bài thế này. Lâu nay đọc thơ Nguyễn Trác, ta nhập vào các không gian tình cảnh- nỗi niềm mà ông đã dựng và dẫn gợi ta đi. Ta được gặp lại tâm sự của chính mình mà bồi hồi, mà thú vị với ông, nên đã quên đi tìm cái đặc sắc nghệ thuật mà ông đã dụng công nên đạt được. Theo tôi, cái đặc sắc nghệ thuật đầu tiên của Nguyễn Trác mà hôm nay ta cần và có thể ghi nhận là ở cái lối cấu trúc -cấu tứ thơ như thế này.

Nghe nói Nguyễn Trác ít nhập hòa tự nhiên chỗ đông người, thế mà cũng có trưa , người ta mời uống rượu, chắc là vì nể bạn, và ham vui, ông đã đến. Chả biết bữa ấy, men rượu đã làm ông thăng hoa đến đâu, chứ cái men đời thì hẳn đã ngấm vào thật đậm. Ông viết ra tự nhiên, nhẹ nhàng mà đầy ý tứ:

Rượu Minh Mạng mà không Minh Mạng /Đời hư hư thực thực trên bàn

Kìa một đám múa lân trên phố /Múa từ mùa thu trước chưa tan

Đừng khen nhà thơ tinh ý khi nhìn nhận cô gái - thì ông nhà thơ nào mà mắt mũi chả tinh- Nguyễn Trác có tinh nhạy hơn một tí, thì cũng là do bản tính ông hay lặng lẽ quan sát, lắng nghe mà thôi. Ở đây, ta biết là Nguyễn Trác bề ngoài trầm lặng thế, mà thật ra, có tâm hồn rất trẻ, ngay khi đã ngoài 60, 70, và đặc biệt, ông cũng rất hóm hỉnh, rất già dặn. Đang kể chuyện rượu lại “lẫn” sang chuyện đời, vừa ngắm đám múa lân trước mặt, đã “lơ mơ” mà bảo là Múa từ mùa thu trước chưa tan! Cái ông Nguyễn Trác này dễ là hậu duệ trực tuyến của Cụ Tam nguyên Yên Đổ chứ chả chơi.

Tôi không định nói là Nguyễn Trác đã viết lâu, đâu như từ trước năm 1973 khi còn dạy học ngoài Bắc. Các bài thơ thể nghiệm trước ấy quả đã có hiệu quả nghệ thuật, khiến năm 1973, mới vào chiến trường, đụng với bom đạn, đói rét và cả nỗi nhớ nhà quay quắt, ông đã viết ngay được những bài thơ mới, hòa nhập và khởi phát với dàn thơ chiến sĩ . Âm hưởng thơ Nguyễn Trác năm đầu ra trận ở Gửi một người bạn võng gợi ta nhớ Phạm Tiến Duật:

Chúng ta nằm trong cây lá Trường Sơn/ Mái tăng kề mái tăng che sương rừng nặng hạt/Qua một ngày hành quân anh bất ngờ lại hát/ Khúc hát về Mai sau.

Ở một bài khác, như bài A cui đi đánh giặc, Nguyễn Trác lại làm bạn đọc liên tưởng đến Nguyễn Khoa Điềm với bài thơ về bé A cay:

Thương anh tiếng chày cũng hóa tiếng chim /Cối có hơi cha thóc có mùi sữa mẹ /Em giã cho anh hạt gạo trắng mềm /Hạt tấm bay lên đậu vào trên ngực

Hương gạo đầy tim em…

 

Con gà trống lông đuôi bảy sắc/Cái chân cao đầy gang/Cái cựa dài gần tấc

Nó đang đứng trên cầu thang nhà Rông gáy mừng anh đi đánh giặc/

Ơ tiếng con gà cái bụng em ưng.

 

Ngày đánh giặc ở Đông hay Tây Trường Sơn, vùng cát Quảng Đà hay tít tận vùng lầy Tây Nam Bộ, chúng ta đã quen hợp đồng theo tiếng súng. Anh em văn nghệ sĩ lúc đó viết ra cứ để trong ba-lô, có mấy ai được gặp giao liên, có sẵn điện đài mà chuyển về cứ, chuyển ra Bắc để in ấn . Những Phạm Tiến Duật với Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân với Chim Trắng, Viễn Phương và Nguyễn Duy…rồi rất đông rất nhiều là bao nhiêu nữa: Trần Mạnh Hảo, Ngô Thế Oanh, Trần Phương Trà, Ngân Vịnh, Văn Lê, Nguyễn Trác … các anh các chị đã tự lắng nghe trong tâm trí mình, trong bước đi của giao liên và chiến sĩ mỗi ngày, mà tự viết, tự hợp đồng đấy thôi! Người ta nói có một dàn đồng ca thơ của thời đại chống Mỹ cứu nước là nghĩa như vậy.

Nhiều người chỉ viết về chiến trận mà đã nên danh như Phạm Tiến Duật, Nam Hà, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy…

Riêng Nguyễn Trác, sau chiến tranh, ông chuyển khá nhanh sang đề tài khác. Sự chuyển đổi cảm hứng và nội dung sáng tác này ở ông hẳn là có lí do chung và riêng. Sự chuyển hướng này ở Nguyễn Trác là sự chuyển đổi phù hợp, và đáng nói là nó không hề đứt gãy so với chặng sáng tác trước của ông. Ông vẫn viết về đồng đội và chiến trường đấy thôi, nhưng đã bằng một cái nhìn khác:

Kìa con suối em thường xuống tắm/ Con suối ôm tròn cơ thể thanh tân

Em đừng chết cho suối đừng cạn nước/Rau thục rau môn đừng phải đắng lòng

 

Chim vẫn kêu sau vạt đồi hoa thắm /Em có còn nhớ tiếng chim không

 

(Chim vẫn kêu sau vạt đồi sương muối)

 

Đấy là viết về một sự thực phũ phàng, một kỉ niệm buồn đau vô cùng, mà tác giả lại cứ kêu và hỏi: Em đừng chết… Em còn nhớ không… Sự thẫn thờ này rồi sẽ theo Nguyễn Trác rất lâu, như theo mãi mà ủ lại, mà lên men trong thơ của ông, dù ông viết về đời thường hôm qua và ngổn ngang tình cảnh cùng thế sự hôm nay.

Trong thời đoạn chuyển hóa này Nguyễn Trác có một bài đáng chú ý là bài Vết đạn trên thành cổ, thành ở đây là thành Hà Nội, bài thơ kết thúc thế này:

Một khí tiết Hoàng Diệu /Sao cứu nổi thành tan/

Mấy trăm người lính Nguyễn /Đã trở thành hồn oan

 

Đặt tay lên vết đạn/Thấy tay còn nóng ran

Tôi biết mình mãi mãi/Không thể là vô can

 

Nguyễn Trác đã sáng tác hàng trăm bài thơ, xuất bản riêng sáu tập, số bài làm theo lối ngũ ngôn như bài này rất ít. Đây là ngẫu nhiên hay là ý thức của ông ? Chỉ biết là với bài thơ có nhạc điệu này, mới đọc thấy nhẹ nhàng, nhưng ta hãy đọc chậm, để cho âm điệu của nó ngân vang lên một lần, vài lần, rồi tự nó như ngân mãi, thì đúng là ta cũng nóng ran người rồi! Cái ý không thể là vô can mà tác giả buông ra quả thực rất ám ảnh.

Đọc các bài thơ gợi nhắc kỉ niệm…kể chuyện đã qua của Nguyễn Trác nữa, như: Tôi đã buồn bã nói với em, Nhớ một miền đất cũ, Một khúc ca cho Mỵ Châu… ta dễ nhận ra nhạc điệu của chúng có biến hóa, mà giọng điệu thơ thì vẫn là một, ổn định. Đây là một đoạn trong bài Một khúc ca cho Mỵ Châu:

 

Hôm nay tôi hát về em /Bằng cánh vạc sương đêm/

Bằng bánh chưng bánh dày mẹ nấu/Bằng mưa dây bão giật trên đồng/

Những lứa đôi xa cách

 

Tôi hát về em /Bằng cung tên đạn đá / Những viên đá nặng đắng cay/

Của sự hòa trộn giữa hoa hồng và chính trị /Giữa vầng trăng và thói ích kỉ /

Giữa giọt nước trời và một dòng sông

 

Tôi hát về em /Bằng máu đỏ cha ông

 

Hình như khi viết những dòng này, tác giả đã mê mải lắm, ông đã để mặc cho cảm xúc cùng ý nghĩ được tự do tuôn trào; lúc đó chưa chắc nhà thơ đã ý thức được thật đầy đủ cái vần điệu, nhạc điệu với ngôn từ hình ảnh mà mình buông trải ra sẽ được đón nhận ra sao. Còn người đọc, thì nhờ vào nhạc điệu của đoạn thơ, mà đã được thâm nhập, giao hòa với ý tình của tác giả hơn. Nhiều đoạn thơ và một số bài thơ của Nguyễn Trác, do có cấu trúc gọn ghẽ như đã nói ở trên, lại có thêm được tính nhạc, nên đã tạo ra được sự ngân vang trong tâm trí người đọc là thế.

Tôi muốn nói nhiều hơn về sự đối thoại của Nguyễn Trác bằng thơ với cuộc sống mấy chục năm gần đây.

Trong một bài viết in trên báo Văn nghệ số ra ngày 5.3.2016 (Đối thoại về một dòng văn xuôi giàu chất đối thoại) tôi có dịp cho rằng đối thoại là một phẩm tính nổi trội làm nên đặc điểm của văn xuôi Việt Nam trong khoảng 30 năm đổi mới, hội nhập và phát triển. Nhân bàn về thơ Nguyễn Trác mà đọc rộng đọc thêm đến thơ của nhiều người khác nữa, tôi muốn nói rằng thơ muôn đời này vẫn lấy sự bộc bạch, độc thoại làm xuất phát điểm (xưa gọi là ngôn chí); nhưng trong xu thế chung của thời đổi mới ở ta, thơ cũng rất giàu chất đối thoại. Nói quá lên một tí, thì với một số loại thơ (như thơ trào phúng, châm biếm) và với nhiều nhà thơ thời nay, viết để đối thoại với nhân sinh, thời cuộc cùng bao sự việc, bao vấn đề, bao tình huống tư tưởng, tình cảm… cũng là một nguyên cớ sục sôi, làm nên một kết cấu ý -lời công phu, có sức lan tỏa (như thơ và trường ca về biển đảo Việt Nam những ngày này, với sáng tác của Hoàng Trần Cương, Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Việt Chiến… chẳng hạn.).Vậy chất đối thoại trong thơ Nguyễn Trác ra sao?

Đã có lúc người ta nghĩ rằng viết về lịch sử, về quá khứ, là đối thoại với lịch sử và quá khứ, viết về một nhành cây, một bông hoa, một gợn sóng… đang hiện hữu, là mình đang đối thoại với nhành cây, bông hoa, gợn sóng…ấy. Nói qua, cho xong, thì thế cũng được. Nhưng để ý kĩ hơn, ta sẽ thấy là viết/làm thơ, mà nặng về tả, thì chất đối thoại không rõ lắm, còn làm thơ về những cái vô hình vô lượng, và cả những cái cụ thể như vừa gợi ở trên, mà chỉ nhằm trực tiếp bày tỏ những cảm xúc, suy tư của mình, thì quả thật, chất đối thoại lại đậm đà hơn, trường đối thoại rộng và cao sâu hơn. Thơ Chế Lan Viên thuộc dạng này. Nguyễn Trác có bài làm ta nhớ đến Chế Lan Viên, như bài Hoa mua ở Côn Sơn:

Hoa mua tím từ thời Nguyễn Trãi Đến bây giờ còn tím với ngàn sau

Ơi cô gái cài hoa lên tóc mình đi hội /Có biết màu tím ấy từng đau

Và Nguyễn Trác có nhiều hơn lời đối thoại với bạn yêu thơ, người đọc thơ là cái cách ông kể chuyện và tả cảnh với các chi tiết chọn lọc rất kĩ như nhà thơ Đoàn Văn Cừ thuở viết Phiên chợ Tết dạo nào, như Tống Ngọc Hân viết truyện ngắn về vùng cao bây giờ. Ai lên Sa Pa ở gần đỉnh Hoàng Liên Sơn cũng nhớ chuyện này cảnh nọ, riêng Nguyễn Trác thì nhớ và cảm:

Chú bé Dao /Vừa đi vừa bốc bim bim /Áo thổ cẩm quần Gin /Mũ Càn Long giầy vải

Em mười tám tuổi /Nhỏ như con gái xuôi mười lăm /Năm ngoái trai bản “cướp” về làm vợ /Năm nay tay đã bế bồng

Sa Pa/Bất chợt tiếng khèn /Thảng thốt hồn chiều /Hoa trạng nguyên đỏ thắm

Nguyễn Trác có nhiều bài thơ kể chuyện mình từng trải, chuyện mình đang thấy. Khi kể và tả như thế, ông đã tỏ ra có dụng ý và khả năng của một họa sĩ, một nghệ sĩ theo trường phái sắp đặt. Cảnh mà các ông kể lại, xếp đặt ra, đã ngụ ý được nhiều, tác giả chẳng phải thốt lên ôi, a, xuýt xoa hay trầm trồ, thương xót với cảm thán gì nữa. Làm thơ được như thế là điềm tĩnh lắm, rất có chủ kiến và kiên gan, không sợ người đọc hiểu chệch hiểu sai sự xếp đặt, kể và tả của mình. Sự chuyển hóa lối viết, để tạo ra một cách đối thoại của mình với bạn đọc này của Nguyễn Trác là khá rõ, nhất là khi ta đối chiếu các bài ông viết những năm ở chiến trường hay đang sống và sáng tác ở Quảng- Đà (như Những câu thơ chưa viết, Người nhạc sĩ hủi ở I- ta- pê, Bài hát ngày xưa…) với các sáng tác ở chặng sau (như Vết đạn trên thành cổ, Mộng mị ở Hàng Châu, Cà phê võng với miền Tây, Trong tĩnh lặng Lào Cai…)

Đối thoại là một khát vọng. Càng đắm đuối với văn chương, người ta càng hiểu một cách rõ ràng, cụ thể và sâu sắc cái số kiếp văn nhân thi gia là cô độc và cô đơn thế nào, và chắc vì thế mà những con người này càng có nhu cầu kêu lên một tiếng, để xem xem, để nghe ra là ở ngoài kia, ở sau kia có ai biết và hiểu cho mình không, người xưa từng bảo thế. Cụ Nguyễn Tiên Điền thể hiện khát vọng của mình trong Truyện Kiều và nhiều sáng tác thơ chữ Nôm, thơ chữ Hán thật là kì tài, bao nhiêu văn thi gia nước Việt cũng đã có ý theo Cụ, phỏng được bao nhiêu? Tôi biết là Nguyễn Trác có đọc và học Cụ Tố Như, học cả Chế Lan Viên và nhiều nhà khác nữa. Thế nên ông đã lựa cho mình một cách đối thoại với lịch sử, với hiện tại theo lối cách như vừa nêu trên. Tìm viết theo cái cách đối thoại này, tôi thấy ở ông có vài điểm đáng chú ý nữa là:

Số bài Nguyễn Trác viết về những con người cụ thể chiếm tỉ lệ khá cao, mà đó, lại thường là nghệ nhân (làm gốm, khảm ngọc trai…), là các họa sĩ, các bạn sáng tác (Ngô Thế Oanh, Trần Quốc Thực, Trịnh Thanh Sơn, Phùng Cung…), là cô vũ nữ trong bức tượng Trà Kiệu, chú bé bán thuốc lá trên tàu khuya, cô gái áo phông đỏ rực ngồi trầm tư trên một chiếc xe ngựa ở Vinh…

Đi nhiều, trải lắm, ai mà kể cho hết được những người mình đã gặp, đã chuyện trò, dù chỉ trong một chuyến đi dăm mười ngày ? Thế mà sao Nguyễn Trác lại hay kể và vịnh, ngẫm nghĩ và trình ra những cảm nhận của mình về những người này? Tại sao họ lại là những tiêu điểm, những nguyên cớ để dẫn dắt cho ý nghĩ của nhà thơ được nảy nở và kết tủa?

Bất chợt mà nhớ ra tôi thấy: Trong bài Chiều Chu Đậu viết về ông già vẽ gốm có mấy câu: Ông già ngồi như lửa/Ngồi bệt trên đất bằng/Đất cho ông hơi ấm/Trời cho thêm nét trăng…,hay ở bài Với một họa sĩ trẻ Kinh Bắc: Anh không chịu đựng nổi những gì bằng phẳng nữa/Anh không chịu đựng nổi/ Sự tan biến của màu/Trên lối mòn quen thuộc...và những dòng này nữa:

Không thể có thực đâu /Dáng uốn cong kia của đôi tay vũ nữ

Không có thực /Cả đôi chân kia nữa /Cả tấm thân mang hình ngọn lửa

Cũng mơ hồ phi lí đến ngây thơ…

 

Nhưng không thực em làm sao sống nổi/Giữa bao nhiêu thiện, ác trên đời

Giữa bao nhiêu hão huyền lịch sử/ Bao thăng trầm được mất buồn vui…

 

thì ta ngẫm ra rằng ở đây, Nguyễn Trác không chỉ viết về một con người cụ thể, thấy cái ông già ngồi bệt mà như lửa kia, cái chàng họa sĩ trẻ không chịu đựng nổi những bằng phẳng kia, và cả cô vũ nữ Trà Kiệu thực thế mà kì bí ấy, là một phần của chính tác giả đấy, lại cũng là mấy bạn văn nghệ (như Lê Huy Quang luôn kêu gọi phải khác)…Nhưng không thực/Em làm sao sống nổi/Giữa bao nhiêu thiện, ác trên đời/Giữa bao nhiêu hão huyền lịch sử/Bao thăng trầm được mất buồn vui…(Cho phép tôi chép lại mấy câu này), đó là đối thoại rõ ràng của ông với thời cuộc bây giờ, và cả với muôn sau nữa.

Thơ không thể dấu mình. Mà sao phải dấu? Thời chiến tranh chúng ta đã hào hứng thật lòng với những câu: Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt/Như mẹ cha ta như vợ như chồng/Ôi Tổ Quốc, nếu cần, ta chết/Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông… (Chế Lan Viên), dạo mới hòa bình người Việt ở ngoài Bắc đọc với nhau: Ôi đâu phải qua đêm dài lạnh cóng/Mặt trời lên là hết bóng mù sương/Ôi đâu phải qua đoạn đường lửa bỏng/Cuộc đời ta bỗng chốc hóa thiên đường…(Tố Hữu). Những câu thơ đã vượt qua, vượt lên trên số phận nhà thơ. Nguyễn Trác bản tính trầm lắng, ông không viết được những dòng thơ hào sảng kiêu dũng như ai, ông nhỏ nhẹ và như có gì nhẩn nha. Thì mỗi cây mỗi hoa mà. Bạn thơ ta nhiều người cứ nhận mình là cỏ kia kìa, có mềm mỏng và nhún nhường không? Nhưng đừng tưởng nhé, bị nắng nóng cát bụi vùi dập, bị úng ngập, sình lầy, ngỡ đã tiệt tuyệt, thế mà một sớm xuân kia, cỏ bời bời ngút ngát đấy thôi. Thơ Nguyễn Trác là nhành, là cụm hoa cỏ đấy chăng?

Trong nền thơ đương đại có nhiều trưởng thành, có lắm hương sắc mới lạ ở ta, Nguyễn Trác thuộc nhóm tác giả vừa tự tin vừa ngơ ngác mà “chầm chậm tới mình” như nhà thơ Trúc Thông nói: Cái ngơ ngác của Nguyễn Trác có thể là thật thế, cũng có thể là ông “giả vờ” thì phải. Ông Nhớ một miền đất cũ, Ở cuối dòng sông2 thủa nào, trong cái Đêm yên tĩnh lạ lùng/ ông còn biết là Ngoài Hồ Tây cơn mưa đã tạnh/ Những vệt sáng lấp lánh của một đàn đom đóm vụt qua, và còn kết được là:

Mọi ồn ào hình thức đã xa /Cuộc sống tìm về cội nguồn của nó

Và ếch nhái vẫn như muôn thuở/ Gọi nhau mà không thấy mặt nhau

/

Đó là một câu kết bất ngờ! Ếch nhái nào lại Gọi nhau mà không thấy mặt nhau thế ?! Tôi không tin là các nhà thơ ta như Nguyễn Trác lại ngẩn ngơ. Có những cách đối thoại trực diện, trực tiếp. Và cũng đã và đương có nhiều lối đối thoại với thời thế như Nguyễn Trác và các nhà thơ ta vẫn làm. Hóa ra, được giãi bày không e dè hay là giãi bày có chừng mực, ý tứ, cũng đều là cần và có thể cả. Thơ ấy mà.

Trò chuyện với một người cụ thể, “vịnh” về một bạn thơ cụ thể cũng là một mảng thơ Nguyễn Trác. Ở mảng thơ này, cũng như ở các bài thơ viết về những nơi ông đã đến đất nước ta và cả những vùng thành quách phố thị xa xa bên Trung Hoa hay châu Âu, ta thấy hiện lên khá rõ cái tư thế trầm ngâm, cái vẻ mặt bần thần, cái tâm trạng đầy xáo trộn và băn khoăn của tác giả. Có thể, đó cũng là nhận biết của tôi, của anh, của chị khi đọc thơ của nhiều người, đọc cả phóng sự và bút kí của các tác giả không chuyên (như các nhà khoa học, nhà hoạt động văn hóa xã hội). Còn đây là các xót xa của riêng Nguyễn Trác khi nói về thế hệ của mình- Những đứa trẻ sinh ra/trong những năm 40,41,45…/đất nước hai triệu người chết đói/mây đen bay trên thế kỉ dữ dằn…/chúng tôi lớn lên/cùng bom đạn Trường Sơn…/ mười chín đôi mươi trời xanh góa bụa/mười chín đôi mươi bàn ghế xuống đường/mười chín đôi mươi già như Lịch sử… và bây giờ:

Xin hãy để chúng tôi /Được đôi lúc giận hờn phẫn chí /Một tí thôi cho đỡ nao lòng

Dù chúng tôi biết rất rõ rằng /Cả thái độ chán chườngLẫn hoài nghi cuộc sống/ Có lẽ đều không hợp với Tương lai

 

Không ai có quyền vòi vĩnh gì quá khứ

 

Nhưng hãy để chúng tôi/ Được một lần gục đầu vào Quá khứ /Như được gục đầu vào lòng mẹ ngày xưa /và khóc.

Biết đâu, đã có người đồng cảm đồng ý với ông và một số nhà thơ khác khi họ viết như vậy, mà vẫn băn khoăn, rằng Nguyễn Trác - như đã nói ở trên, vốn là người ít lời, điềm tĩnh và nhũn nhặn cơ mà. Thì vẫn nhỏ nhẹ và nhũn nhặn đấy thôi. Năm 1989, viết mấy dòng trên, Nguyễn Trác đã từng trải nhiều rồi, đã 44 tuổi chứ còn trẻ nữa đâu. Đọc thêm các bài, như Biển bị che khuất rồi (1997), Rồi bụi tre trong vườn bị chặt (1998), Nỗi buồn đô thị (1999)… chẳng hạn, ta sẽ hiểu ra lời xin thật nhẹ nhàng mà xót xa của ông. Lại đọc tiếp các bài viết về đồng đội hồi còn chiến tranh, như Chim vẫn kêu sau vạt đồi sương muối, Người trên đường ,… và mấy câu này: Người ấy đọc lên một ý nghĩ bất ngờ /Một ý nghĩ thật là khủng khiếp /Người ấy lại mong chiến tranh, dù biết /Vết thương người buổi ấy, chưa khô/

Người ấy hỏi rằng sao những tháng năm xưa /Giữa Trường Sơn sống lẫn cùng cây cỏ /Sống lẫn cùng muông thú /Chúng ta giàu có thế yêu thương

 

trong bài Phản đề gửi một bạn thơ Đà Nẵng (chính là người ấy)… ta sẽ biết được căn nguyên những trăn trở trong thơ Nguyễn Trác. Và đây, cũng là một biểu hiện nổi bật của gương mặt - tâm hồn -thơ của ông.

Nguyễn Trác chịu ảnh hưởng của ai? Đọc thơ của ông và lắng nghe ông nói chuyện với giọng nhỏ nhẹ đều đều, lại quan sát ông ở nơi nọ nơi kia -là người có cương vị hẳn hoi, mà thấy ông vẫn như có gì e dè, nhường nhịn, tôi đồ rằng ông đã chịu ảnh hưởng từ rất nhiều văn thi gia bè bạn lớp trước và lớp sau. Trong đó có người giông giống ông như Ngô Thế Oanh, Trần Quốc Thực…, có người bề ngoài rất khác ông như Trịnh Thanh Sơn hay ông là một mảnh của Hoàng Trung Thông đây?…Tôi cũng biết là ông có một người thầy, người Bạn Lớn là cuộc đời này, là Quá khứ và Lịch sử, là những đêm yên tĩnh và cả những cầu Long Biên với chợ Đồng Xuân, là bờ bãi sông Hồng và rừng núi Bắc Trung Bộ…nữa.

Thế mà nay Nguyễn Trác đã vào tuổi 70. Da trắng, tóc hoa râm, nụ cười rạng rỡ dễ thân gần, mà gương mặt thì đã có lúc đang vui lại thoáng chút bần thần nữa, nhất là khi nhắc chuyện đã qua.

Nguyễn Trác là một trong những nhà thơ hay làm mình ngẫm ngợi chuyện đời chuyện thơ, chuyện thế sự bây giờ và chuyện đương đến, sẽ đến mà ông hay viết hoa là Tương lai. Trong lứa nhà thơ trưởng thành những năm kháng chiến chống Mỹ, cũng có một số nhà thơ thường gây xáo động trong tôi nữa, như Bằng Việt. Lúc này tôi chợt nhớ đến Bằng Việt với ý thơ: Nhưng không phải thế đâu, cuộc đời không phải thế /Giọt nước soi trên tay không cùng màu sóng bể /Bể mặn mòi sôi sục biết bao nhiêu…

Nguyễn Trác là giọt nước, là một khoảng trong xanh của hồ, của sông… mà ta có thể nhận ra biển khơi đấy chứ, phải không?

6.6.2016