VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
Về thơ văn bạn bè
Vũ Thành Chung – Một đời thơ còn lại?
Tôi và Vũ Thành Chung quen nhau từ thuở còn “Khoác trên mình màu áo xanh quân phục” (thơ Thi An)...Vũ Thành Chung – Một đời thơ còn lại?
.
Tôi và Vũ Thành Chung quen nhau từ thuở còn “Khoác trên mình màu áo xanh quân phục” (thơ Thi An). Thời ấy Chung làm trợ lý cho cán bộ “Cốp” ở Sư đoàn bộ, còn tôi là lính chiến đấu ở dưới đơn vị. Cứ mỗi lần nhìn thấy Chung cưỡi trên chiếc xe Sidecar, hay trên chiếc com măng ca GAZ 69 vi vu khắp đó đây, làm tôi phục sát đất. Hồi đó, nếu những chiếc xe này mà về thôn quê, thì trẻ con tốp năm tốp bẩy lũ lượt đuổi theo sau, cốt được tận tay rờ vào thân xe và tận mắt chiêm ngưỡng chú tài xế cao lớn bằng xương bằng thịt với bộ quân phục đĩnh đạc. Chả thấy thế mà đám cưới Thi sỹ Kim Chuông, Chung một mình một xe về dự làm thôn dân làng Thắng ở Vĩnh Bảo – Hải Phòng “lác mắt”.
Số phận may rủi thế nào, anh em tôi được Thành hoàng làng Ho* bảo vệ đã thoát khỏi lưỡi hái tử thần chiến tranh và bình an vô sự. Sau bẩy năm phục vụ ở quân đội, năm 1974 Chung được chuyển về Đại học Tổng hợp Hà Nội, nay là Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn và năm sau sang Liên Xô cũ du học tại thủ đô Matxcơva. Còn tôi cũng được quân đội cử đi du học tại Liên Xô cũ, nhưng ở mãi nơi tít tắp mù khơi cách Matxcơva trên ba ngàn cây số. Những năm tháng ấy, chúng tôi chỉ giao lưu với nhau qua các lá thư bằng con tem ba cô pếc, hay phải hẹn nhau cùng ra bốt bưu điện ở hai nước cộng hòa khác nhau để “dốc bầu tâm sự”.
Matxcơva ngày ấy, không chỉ là thủ đô của Liên bang Xô Viết, mà còn là thủ phủ của cả phe xã hội chủ nghĩa, vì đi đường tàu hỏa kiểu gì cũng phải transit qua nhà ga Matxcơva. Ai diễm phúc được học ở Mátxcơva là niềm tự hào của bản thân, của dòng họ cũng như quê hương. Riêng trường của Chung cách Quảng trường Đỏ có vài bước chân, nên Chung có khá nhiều bạn bè ở Liên bang Xô viết và nhiều quốc gia khác. Ngày đó chưa có điện thoại di động, nên ai muốn gặp Chung, thì chỉ có tìm ở giảng đường hay đêm muộn ở ký túc xá… Sáu năm vèo trôi. Sau khi tốt nghiệp đại học, về nước có khá nhiều cơ quan xin, nhưng không biết thế nào, Chung lại chọn Trung ương Đoàn làm điểm dừng chân. Công tác ở đây một thời gian, Chung được cấp trên cho quay lại Matxcơva làm việc, rồi học cao học ở bên đó, liền tù tỳ tổng cộng tính cả thời sinh viên tới gần hai chục năm ròng.
Những năm đầu của thế kỷ XXI, Chung trở về tổ ấm của mình ở Hà Nội. Không biết vì duyên cớ gì, Chung bỏ tất cả các công việc khác để dấn thân vào con đường văn học nghệ thuật. Trước kia ở Nga, một năm Chung về ở với vợ con được hai hoặc ba tháng. Từ hồi về nước, Chung sống với vợ con ít hơn thời gian khi còn ở bên nước ngoài. Vì thế Nhà thơ Bình Nguyên lúc tả chân dung Vũ Thành Chung bằng hai câu thơ chân chất dí dỏm: “Đời là một chuyến đi xa. Mỗi năm ghé lại thăm nhà mấy hôm”. Năm 2003, Vũ Thành Chung cho xuất bản tập thơ in chung đầu tay mang tên Thơ những ngày xa, mặc dầu năm 1975 Vũ Thành Chung đã giành giải A do Báo Văn nghệ và Bộ Lao động Thương binh Xã hội tổ chức với chùm thơ “Màu áo”. Thế rồi năm 2004, thì tập thơ thứ hai Miền quê thao thức chính thức được trình làng và cứ như vậy Vũ Thành Chung “đẻ” sòn sòn một mạch “mấy đứa liền”: Biển nhớ (2005); Thơ xanh bóng núi (2005); Lục bát giao duyên (2006); Cảm ơn nỗi buồn (2007); Cát ru (2009)… Cố Nhà giáo Ưu tú, Nhà thơ Trọng Khánh là bạn thân của mấy anh em tôi thấy thế hốt hoảng, đùa rằng: Nếu Vũ Thành Chung đang công tác tại Trung ương Đoàn, chắc chắn bị đuổi việc vì tội “đẻ” quá dày. Ngoài giải A ra Vũ Thành Chung còn được tặng thưởng giải C báo Người Hà Nội năm 2005, giải lục bát Trăng Bạc năm 2017, giải Nhất giao hưởng viết về Hải Phòng năm 2010, thơ Vũ Thành Chung, nhạc Nguyễn Tài Tuệ và một số giải thưởng khác…
Mấy năm gần đây, Vũ Thành Chung mang trọng bệnh, “Bạn giờ lấy viện làm nhà. Mang thơ ra ướp hồn hoa tháng ngày” (Thơ Thi An). Đặc biệt là từ cuối năm 2016 đến giữa năm 2017, tôi cảm giác Vũ Thành Chung khó có thể vượt qua “số mệnh cuộc đời”. Vào thời điểm khó khăn đó, nhóm “Những dòng sông cùng chảy” có bàn nhau để ra “tập thơ chọn” cho đồng nghiệp. Tôi cố gắng tìm lại các thi phẩm đã xuất bản, những bài thơ sáng tác trước đây, các bài thơ được phổ nhạc, những bài viết của bạn văn về Vũ Thành Chung, các bức ảnh nghệ thuật của Vũ Thành Chung được giải thưởng… Sau đó nhờ họa sỹ vẽ bìa, thuê người đánh máy, rồi chọn ra hơn một trăm bài thơ, trường ca cùng với một số bài viết về Vũ Thành Chung và chuyển cho các thành viên trong nhóm rà soát lại. Khi công việc đã hòm hòm, chúng tôi phân công nhau mỗi người lo một việc, để tập sách được ra mắt bạn đọc trong thời gian sớm nhất.
Ơn trời, từ cuối năm 2017 sức khỏe của Vũ Thành Chung ngày một khá hơn và chúng tôi bàn giao lại phần việc này cho chính tác giả. Vốn tính cẩn thận, Vũ Thành Chung chầm chậm làm quen với từng con chữ và sắp xếp lại theo ý mình. Rồi đến cuối quý I năm 2018, thì đứa con tinh thần Đi dọc đời mình của Vũ Thành Chung ra đời. Với một trăm hai mươi ba bài thơ, trường ca Một thời để nhớ, mười bẩy bài viết của bầu bạn và chín bản nhạc tiêu biểu được phổ thơ Vũ Thành Chung đã để lại cho tôi thêm nhiều trải nghiệm, cùng những suy tư và sự đồng cảm về một hồn thơ được soi chiếu qua lăng kính thời gian.
Từ lúc còn khoác áo lính, Vũ Thành Chung đã có những vần thơ tươi non, đằm sâu thấm đọng, đầy xúc cảm về người lính, đặc biệt là bài thơ Màu áo của Chung được giải A viết về đề tài thương binh liệt sỹ do Hội Nhà văn và Bộ Lao động Thương binh & Xã hội tổ chức năm 1975. Bằng những rung động rất thật của người trong cuộc, qua cái nghĩ cái cảm của tác giả vừa trào dâng, vừa quặn thắt: Đôi tà áo trắng bay lên. Như đôi cánh cò trong câu hát. Như cuộc đời em – Người thày thuốc. Màu áo. Em choàng! (Màu áo). Nghiền ngẫm đọc Vũ Thành Chung, mới thấy chất thơ dung dị của Chung được khai khẩn trên “cánh đồng quê” với những “đường cày sáu tám” khá hồn nhiên, giàu hình ảnh hình tượng. Lúc dạt dào, nồng nhiệt. Lúc trầm lắng dịu êm. Lúc như tãi cảm xúc ra mà viết, rồi đôi lúc thăng hoa: Bây giờ ông đã quy tiên. Vầng trăng ông kéo vó lên bầu trời. (Thơ dâng). Hoặc: Tôi là đứa trẻ lên ba. Gầy như dải yếm của bà vắt vai. Hạt cơm cõng mấy củ khoai. Bà nuôi tôi những năm dài tuổi thơ. (Bà tôi). Hay: Mẹ giờ cạn kiệt lời ru. Chân đi lẫm chẫm, lưng gù trước sân. (Lời mẹ)
Đứng trước Khu Di tích Côn Sơn, bao sóng lòng Vũ Thành Chung lại dội về. Câu thơ để lại sự ngẫm ngợi về một nỗi đau oan trái được thấm vào từng con chữ, đè trĩu tâm can người đọc: Máu đào đẫm lệ Chi Viên. Sáu trăm năm chảy dọc miền đắng cay. (Im lặng Côn Sơn). Hay khi lên miền biên ải Cao Bằng, thì cảm xúc người thơ được giãi bày trong miền ký ức thiêng liêng. Câu thơ có vẻ nghênh ngang, nhưng nhạc tính lại hiền từ, mềm mại, uyển chuyển: Xa nhau bao nhiêu ngày. Ủ bấy nhiêu thương nhớ. Chén này, thêm chén nữa. Uống cả hình bóng nhau? (Rượu mây). Hay khi ở mảnh đất Pác Bó cảm xúc của người thơ được dồn căng như đang “trôi giữa chiêm bao núi ngàn”, chất thơ tinh tế lay động nội tâm: Hỡi em! Cô gái áo chàm. Gùi ngô. Gùi cả nắng tràn trên lưng. (Tìm về Pác Bó)
Lúc về đất chèo Thái Bình, Vũ Thành Chung thật nhạy cảm, tinh tường với tứ thơ độc đáo, cảm xúc mới lạ, màu thơ rặm ruội làm độc giả thán phục, không thể bỏ qua: Mắt em lung liếng đưa duyên. Làn chèo em đổ cho thuyền đứt leo. Anh về buộc lại dây lèo. Chở em cùng những điệu chèo sang sông. (Lúng liếng). Hay khi tới “thành phố trong mơ” Đà Lạt, người thơ bộc lộ hết tâm tư thầm kín của mình với giọng thơ khoáng đạt, nhạc điệu dịu êm. Bao kỷ niệm ngủ im trong tâm trí lại bừng thức: Chợt lên Đà Lạt ngàn hoa. Đầy thông, đầy nắng, thu và tình em… (Đà Lạt thu). Hay trước Nghĩa trang Điện Biên của một người từng trải qua cuộc chiến tranh đầy chông gai gian khó, Vũ Thành Chung mới hiểu hết giá trị cuộc sống. Cảm xúc từ đáy lòng mình bất ngờ bật ra với những câu thơ đầy ngẫu hứng, thi liệu thi ảnh bừng sáng: Khói bay quyện lá xanh rờn. Dáng người lính trận cao hơn tượng đài. (Nghĩa trang Điện Biên). Đây là câu kết của bài lục bát, nhưng theo tôi hai câu thơ này còn mang một sứ mệnh quan trọng của một đất nước trải qua bao cuộc chiến tranh chống xâm lược, giữ gìn nền độc lập tự do của dân tộc. Hai câu thơ trên được thăng hoa và biên độ văng xa hơn và có lẽ là câu thơ hay nhất của Vũ Thành Chung viết về đề tài chiến tranh.
Hay trong Hai tám vạn người với nguồn mạch ngọt ngào, ôm chứa bao tâm trạng với những kết cấu giản đơn, nhưng sức bật được tung hoành. Trong “Suy nghĩ về nghề văn” Vũ Thành Chung viết: “Nhiều khi cứ như trời hay ai xui ta cầm bút, vừa viết vừa khóc từ chữ đầu cho đến chữ cuối”. Đúng như vậy, bài thơ lúc khép lại nghe có vẻ vu vơ nhưng sâu sắc. Dư âm như đang xoáy xiết vào tâm trạng độc giả: Hai tám vạn người. Chết đói năm bốn lăm. Đang cùng tôi gieo mạ. (Hai tám vạn người). Hay với gần hai chục năm gắn bó với xứ sở Bạch Dương, Vũ Thành Chung có nhiều xúc cảm trong trẻo, thi ảnh tạo ra những đột khởi bất ngờ. Cái đẹp trực cảm hình ảnh nước Nga đã thấm đẫm vào tâm hồn tác giả như bức tranh thuần mạc đồng quê bởi những vần thơ nhuần nhị, tươi trẻ: Tôi đi trên con đường. Ngọt hương táo chín. Thơm đến nao lòng. Từng chùm quả đỏ. Hoặc: Nước Nga. Tổ quốc thứ hai của tôi. Đâu chỉ là cơm ăn áo mặc. Đâu chỉ là những ngày tôi đi học. Đùm bọc tôi – Đứa trẻ xa nhà… (Một thời để nhớ)
Theo tôi thế mạnh của Vũ Thành Chung trong các thi tập đã xuất bản, vẫn là thể thơ lục bát. Chung biết chưng cất hồn cốt dân gian, không hề đánh bóng câu chữ, nhưng vẫn đầy hình ảnh hình tượng: Bóng cây che mát đầu tôi. Xanh từ nhựa máu mồ côi tên người. (Nghĩa trang Điện Biên). Hay: Đêm cùng đồng đội tuần tra. Bóng tôi bóng núi tan hòa vào nhau… (Biên ải)… Hay bằng thể thơ tự do, cảm hứng trong Vũ Thành Chung chất chứa điều dự báo, khi đến thăm nghĩa trang liệt sỹ với câu thơ chất vấn nội tâm, đa nghĩa đa tầng đã gây ấn tượng mạnh trong tâm hồn bạn đọc: Trước đồng đội tôi cúi đầu tự hỏi. Sao nghĩa trang. Không có tên tôi? (Sao không có tên tôi).
Bút lực của Vũ Thành Chung khá dồi dào, không chỉ ở đề tài, mà còn ở một thế giới sinh động trước vẻ đẹp bí ẩn mầu nhiệm. Đây cũng là điểm mạnh của tác giả, nhưng với cách nhìn đẹp trước thế giới xung quanh, thì cần phải có năng lực sáng tạo nhiều hơn nữa để tầng chìm, bề sâu của cảm xúc được vang xa…
Ngoài văn chương ra, Vũ Thành Chung còn hoạt động nghệ thuật ở “làng ảnh”. Là hội viên Hội Nhiếp ảnh Việt Nam, Chung đã gặt hái được những thành tích đáng nể mà giới nhiếp ảnh cũng phải ghen tỵ: Bốn Huy chương vàng, một huy chương đồng của Liên đoàn Nghệ thuật Nhiếp ảnh Quốc tế (FIAP); Một Huy chương vàng của Hiệp hội Nhiếp ảnh Hoa Kỳ (PSA); Một Giải Nhất về ảnh nghệ thuật du lịch lần thứ sáu do Tổng cục Du lịch Việt Nam và Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam (VAPA) tổ chức; Huy chương vàng của Hội Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Việt Nam (VAPA) về Di sản vịnh Hạ Long; Giải A cuộc thi về Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới Cát Bà; Giải Nhì cuộc thi toàn quốc “Hãy bảo vệ trẻ em”; Huy chương Bạc, một Huy chương Đồng tại Liên hoan ảnh nghệ thuật khu vực đồng bằng sông Hồng và nhiều giải thưởng khác nữa do các tỉnh tổ chức…
Khi tôi viết đến đoạn cuối bài này, thì được tin Tiến sỹ Luật, Nhà thơ, Nhiếp ảnh gia Vũ Thành Chung đã về cõi vĩnh hằng vào lúc 18 giờ 20 phút ngày 02 tháng 12 năm 2025 tại Hà Nội. Người thơ đã ra đi, nhưng đời thơ còn lại mãi mãi với thời gian. Cầu chúc linh hồn anh siêu thoát về miền Tây phương cực lạc và để ôn lại những kỷ niệm đẹp giữa hai anh em tôi, xin có mấy vần lục bát gửi hương hồn thi nhân Vũ Thành Chung: Bạn giờ ở dưới suối vàng. Mang thơ ra ướp hồn hoang tháng ngày. Trăng vàng lãng đãng mê say. Bóng đêm xao xác thân gầy tóp teo. Ơn giời mang hạt nhớ gieo. Kiếm đôi ba chữ hanh heo cõi người. Câu lục nông nổi gọi mời. Như cầm được nắng vàng tươi cuối mùa. Câu bát đắng đót chát chua. Bờ đau rí rách gió lùa miên man. Cuộc đời phiêu bạt lang bang. Đem thơ chưng cất mơ màng miền quê. Bão dông vây kín tứ bề. Đội mưa tìm lại lời thề heo may?./.
__________
* Thành hoàng làng Ho, xã Vĩnh Hòa, thành phố Hải Phòng là Thượng Tướng quân Đô chỉ huy sứ Nguyễn Tử Mạch đã “che chở” cho thanh niên làng này không một ai hy sinh tại chiến trường trong bốn cuộc kháng chiến (Pháp, Mỹ, Tàu và Polpot).
Hải Phòng, ngày 03 tháng 12 năm 2025.
T.N.T
Các tin khác
-
KHAO KHÁT THỂ XÁC MÃNH LIỆT TRONG “ĐÊM LẠNH” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
-
KHAO KHÁT THỂ XÁC MÃNH LIỆT TRONG “ĐÊM LẠNH” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
-
“KIẾN, CHUỘT VÀ RUỒI...” - THƠ CHÂM BIẾM CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
-
TÔ THI VÂN - LẶNG LẼ XANH…
-
THƠ VỀ RƯỢU CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN: ĐỘC ĐÁO VÀ KHÁC BIỆT
-
NHÀ THƠ GIA DŨNG, QUEN MÀ LẠ
-
Nhà thơ có hai câu thơ bất hủ chống tham nhũng
-
TRĂNG TRONG TRUYỆN NGẮN ‘KIM YÊU’
-
VÀI CẢM XÚC VỚI BÀI THƠ “MEN ĐẮNG”
-
NHẮM RƯỢU VỚI CƯỠNG XUÂN

