VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
Văn xuôi
ĐỊA DANH MỚI SAU SÁT NHẬP THÌ MANG TÊN NÀO CHO PHÙ HỢP?
Hiện nay trên mạng xã hội đang tranh luận khá sôi nổi về việc tên mới khi sát nhập hai địa phương với nhau.ĐỊA DANH MỚI SAU SÁT NHẬP THÌ MANG TÊN NÀO CHO PHÙ HỢP?
.
Hiện nay trên mạng xã hội đang tranh luận khá sôi nổi về việc tên mới khi sát nhập hai địa phương với nhau. Tôi đã từng góp ý nhiều ở việc đặt tên cho các làng xã, đường phố, quận huyện, hay đền miếu, mà nay gọi là di tích… nhưng đều thất bại, bởi có đưa ra thì hầu hết bị phản bác. Ngay khu phố tôi ở, nhà mặt đường bên trái phố được đánh số nhà từ nhỏ tới lớn, còn bên phải cùng phố ấy thì đánh số nhà ngược lại, tức từ lớn tới nhỏ. Vì sổ đỏ cấp rồi, giờ thay đổi không dễ dàng gì, chỉ khổ mấy cháu bưu điện hay ship hàng suốt ngày phải hỏi. Hay tôi đưa ra cụm từ: Cây cổ thụ, ngày sinh nhật, đường quốc lộ… không có trong từ điển tiếng Việt, nhưng bị một số nhà giáo tốt nghiệp ĐH Sư phạm hẳn hoi, hay một số Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam… phản đối. Hay ở nội đô Hải Phòng có một số đền, miếu mang tên: Từ Nghĩa Xá, Từ Lương Sâm, Đền Nghè… trong đó có di tích cấp quốc gia và cấp quốc gia đặc biệt.
Theo định nghĩa của từ điển tiếng Việt, thì Từ là đơn vị sẵn có trong ngôn ngữ. Từ là đơn vị nhỏ nhất, cấu tạo ổn định, mang nghĩa hoàn chỉnh, được dùng để cấu thành nên câu. Từ có thể làm tên gọi của sự vật (danh từ), chỉ các hoạt động (động từ), trạng thái, tính chất (tính từ)... Từ là công cụ biểu thị khái niệm của con người đối với hiện thực. Hay trong dân gian có câu: “Lừ đừ như ông Từ vào đền”, tức chữ này chỉ người coi miếu hay đền, ngày nay là người trông nom di tích… Nghĩa là cách dùng chữ ở đền Nghĩa Xá hay đền Lương Xâm chưa đúng ngữ pháp tiếng Việt. Còn dùng theo chữ Hán phải gọi là Nghĩa Xá từ hay Lương Xâm từ.
Hay chữ Nghè là một công trình kiến trúc nhỏ, một hình thức của đền hay miếu, thờ thần thánh, có mối quan hệ mật thiết với một di tích trung tâm cụ thể nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở một xóm, làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc, cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong làng xã đáp ứng nhu cầu thờ cúng thường nhật của dân sở tại khi ngôi đền chính khó đáp ứng được. Ở Việt Nam, ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII. Hay trong dân gian có câu: “Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng”, chữ Nghè ở đây có nghĩa là Tiến sỹ Nho học. Và còn ngữ nghĩa nữa là nện cho nhẵn, cho bóng như nghè giấy, nghè sợi. Như vậy miếu thờ Nữ Thánh Chân mang tên đền Nghè là thừa chữ, thiếu ý và tối nghĩa vì Nữ Thánh không phải là Tiến sỹ Nho học.
Hay một di tích rất nổi tiếng ở tỉnh Đồng Nai được xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt mang tên “Mộ Cự Thạch Hàng Gòn”, nếu cụm từ này đem đố các nhà văn, hay Bộ trưởng Bộ Văn hóa thì cũng bó tay.com. Và còn rất nhiều những cái tên nửa Ta nửa Tàu khác tối nghĩa nữa, nhưng vẫn được cấp Di tích cấp quốc gia đặc biệt, cấp quốc gia. Tôi viết ra như vậy để các bạn hiện đang tranh luận trên mạng, muốn đặt địa danh mới của tỉnh bạn sau sát nhập không hề dễ dàng chút nào. Ví như tỉnh Hải Dương (海陽), tên chữ Hán theo bản đồ thời Đồng Khánh (1886), nghĩa tiếng Việt là “mặt trời phía biển”. Còn hai chữ Hải Phòng (海防), nghĩa tiếng Việt là “nơi canh phòng biển”. Vào ngày 14 tháng 09 năm 1887, thì Toàn quyền Đông Dương tách Hải phòng từ tỉnh Hải Dương thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh gồm 3 huyện An Dương, An Lão và Nghi Dương, 3 năm sau (1890) tiếp tục tách Đông Triều từ tỉnh Hải Dương thành một đơn vị hành chính tương đương cấp tỉnh gọi là đạo gồm 3 huyện Thủy Nguyên, Đông Triều và Chí Linh. Và phần còn lại của tỉnh Hải Dương cổ mang tên Hải Dương.
Sau 138 năm (2025) tách ra, thì giờ đây Hải Dương và Hải Phòng sẽ thành một đơn vị hành chính cấp thành phố (hay cấp tỉnh). Nhiều người trên mạng đề nghị địa phương mới mang tên Hải Đông (海東), nghĩa tiếng Việt là phía Đông của biển. Thời nhà Trần (1225 – 1400) có lộ Hải Đông tương đương một phần Quảng Ninh hiện nay, gồm châu Yên Bang gồm 8 huyện: An Bang (Hoành Bồ hiện nay), An Lập (một phần Yên Hưng hiện nay), An Hưng (một phần Yên Hưng hiện nay), Tân An (nửa phía Tây tỉnh Hải Ninh cũ, tức khu vực Móng Cái, Tiên Yên hiện nay), Chi Phong, Đại Độc (đảo Cái Bầu hiện nay), Vạn Ninh (phần Đông tỉnh Hải Ninh cũ, tức phía đông Móng Cái và Tiên Yên với một phần Quảng Đông, Trung Quốc hiện nay), Vân Đồn (Vân Đồn hiện nay).
Nếu như vùng quần đảo Cát Bà, Vịnh Hạ Long, Bạch Long Vỹ… mang tên Hải Đông, thì còn tạm chấp nhận được, còn không nên giữ tên cổ là Hải Dương. Theo tôi, vì hai địa phương đều có chung chữ Hải (海), thì địa danh mới sau khi sát nhập sẽ mang tên Hải Đồng (海同), nghĩa tiếng Việt là cùng biển, hay chung biển. Nói thế thôi chứ lãnh đạo không nghe mình đâu, ta bàn cho vui thôi!
NGỌC TÔ
Các tin khác
-
ĐẤT CẢNG HẢI PHÒNG
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
TẠI SAO LÀNG CAN TRÌ LẠI ĐỔI THÀNH HU TRÌ?
-
ĐỊA DANH “ĐẠI THAN” THỜI TRẦN NẰM Ở ĐÂU?
-
SÔNG BẠCH ĐẰNG CÒN GỌI LÀ SÔNG RỪNG (DẦNG)?
-
"DỌN VƯỜN II" VỀ VIỆC TÊN PHƯỜNG, XÃ THEO SỐ THỨ TỰ VÀ ĐÁNH SỐ NHÀ
-
SÔNG TAM BẠC Ở HẢI PHÒNG CÓ TỪ BAO GIỜ?
-
CHÙA VẼ HẢI PHÒNG CÓ TỪ BAO GIỜ?
-
“DỌN VƯỜN” TÊN CÁC DI TÍCH