VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
TÔ NGỌC THẠCH
XANH BẾN NGHIÊU PHONG
Tiết trời tháng Năm còn nóng bỏng đang phơi mình trên những hàng phượng vỹ chói chang,...XANH BẾN NGHIÊU PHONG
.
Tiết trời tháng Năm còn nóng bỏng đang phơi mình trên các hàng phượng vỹ chói chang, đây cũng là mùa của bằng lăng tím đong đầy bao hoài niệm xưa của những ngày tháng truân chuyên nhung nhớ. Từ Khu Công nghiệp Đình Vũ, anh em tôi tiếp tục tiến về phía Đông qua cầu vượt biển Tân Vũ - Lạch Huyện để khám phá miền đất mới. Theo quy luật tự nhiên, thì hầu hết các miền đất càng gần biển hơn sẽ ra đời muộn hơn, nhưng đối với đảo Cát Hải và phần đồng bằng của quần đảo Cát Bà có khác một chút. Bởi các trầm tích phù sa từ các cửa sông chính như Cấm, Nam Triệu, Chanh… đổ ra biển bị các dãy đá ngầm chặn lại và tạo ra miền đất phù sa màu mỡ. Cũng chính vì thế mà đảo Cát Hải và phần đồng bằng của Cát Bà có trước một số làng xã phía Đông của huyện An Dương cổ (nay thuộc quận Hải An), hay huyện Yên Hưng cổ (nay thuộc thị xã Quảng Yên).
Theo nghiên cứu của chúng tôi, thì đảo Cát Hải và phần đồng bằng của Cát Bà có người tới khai hoang từ thời Hậu Lê (1428 – 1788), nhưng có cộng đồng dân cư sinh sống vào khoảng thời Lê Trịnh, hay còn gọi là Lê Mạt (1592 – 1788). Riêng đảo Cát Hải, thì phần lõi, tức các làng An Khoái (sau là Đôn Lương), Lục Độ, Hòa Hy, Thiên Lộc (sau là Gia Lộc), Lương Lãnh,… hình thành trước hơn một thời gian, còn những làng xã khác xa trung tâm huyện lỵ Hoa Phong, từ thời Thiệu Trị là Nghiêu Phong, rồi Cát Hải và thời nay là thị trấn Cát Hải, thì hình thành muộn hơn, tùy theo cấu tạo của lòng đất và dòng chảy của nước. Hay cũng có thể do mảnh đất khu vực trung tâm đảo cát này “đất thơm cò đậu”, nên có cộng đồng dân cư đến sinh sống trước hơn và được chọn làm “thủ phủ” từ xa xưa.
Để bạn đọc hiểu thêm về vị trí địa lý của đảo Cát Hải vào đầu thế kỷ XX, theo bản đồ hành chính tỉnh Quảng Yên do Pháp in năm 1909 và năm 1947 được phân bố vòng quanh đảo ngày nay theo kim đồng hồ như sau: Đôn Lương (khu vực bến Gót làm điểm xuất phát); Lục Độ (khu vực có Nhà máy Nước mắm Vân Hải); Hòa Hy; Gia Lộc; Hoàng Châu; Phong Niên; Nghĩa Lộ và Đồng Bài. Còn hai làng nữa trong nội địa tính từ Đông sang Tây là: Lương Năng và Văn Chấn. Với diện tích toàn bộ đảo này khoảng chừng hai mươi tám cây số vuông, mà làng Hoàng Châu nằm ở phía Tây Nam có chiều dài giáp biển nhiều nhất.
Theo trang 416 sách “Đồng Khánh địa dư chí”, thì ranh giới của huyện Nghiêu Phong (từ đầu thế kỷ XX là Cát Hải) ghi: “Phía Đông giáp xã Vĩnh Thực, phủ Hải Ninh; Phía Tây giáp xã Định Vũ, huyện An Dương, tỉnh Hải Dương; Phía Nam giáp hải phận xã Đồ Sơn, huyện Nghi Dương, tỉnh Hải Dương; Phía Bắc giáp địa phận xã Lưu Khê, huyện Yên Hưng. Huyện lỵ nguyên đặt tại xã Đôn Lương (trước là An Khoái) giáp địa phận xã Hòa Hy. Hai mặt trước sau đều dài 15 trượng 5 thước, hai mặt tả, hữu đều dài 11 trượng 3 thước, xung quanh trồng rào tre. Năm Tự Đức thứ 24 (1871) giặc biển đốt phá, nay dựng nhà tạm ở chỗ cũ để làm việc”. Như vậy ta có thể thấy từ thời Nguyễn, huyện Nghiêu Phong đã là vùng biển đảo rộng lớn bao trùm từ hải giới Đồ Sơn tới đảo Vĩnh Thực thuộc thành phố Móng Cái ngày nay, còn vào các thời trước đó chắc chắn diện tích của huyện Chi Phong, hay Tư Phong, hay Ân Phong… có thể tương đương hoặc còn rộng hơn.
Về phong tục huyện Nghiêu Phong, trang 423 sách “Đồng Khánh địa dư chí” ghi: “Trong huyện không có đồng ruộng lúa má, dân chúng phần lớn làm nghề buôn bán, đánh cá hoặc làm muối, hoặc làm nghề cá mắm, hoặc đốn củi làm vườn, đều phải chở đi các nơi khác bán để trao đổi các thứ cần thiết cho đời sống. Các tiết trong năm, những lễ chúc tụng, điếu tang… đại khái giống như các huyện đồng bằng. Hằng năm cuối hè thi tế thần, mở hội đua thuyền làm vui”. Hay ở trang 398 sách này còn nghi: “…Huyện Yên Hưng và Nghiêu Phong dân khá hiếu học. Tổng Hà Bắc huyện Yên Hưng phong tục có phần chất phác cần kiệm. Dân tổng Hà Nam phần nhiều làm nghề buôn bán, thói tục có phần phóng đãng. Dân huyện Nghiêu Phong hung hãn, thích đánh nhau, khó dạy bảo cho thuần tính… Theo Thiên chúa giáo, thì huyện Yên Hưng có một xã là Yên (An) Trì, huyện Hải Ninh có ba xã (làng) là Lương Tri, Trà Cổ, Xuân Ninh. Còn huyện Nghiêu Phong có xã Đôn Lương gián tòng”.
Qua các tư liệu cổ, chúng tôi đã tìm được 17 người đỗ Sinh đồ (生徒) thời Lê Trịnh (từ năm 1828 gọi là Tú tài) tại huyện Hoa Phong (từ đầu thế kỷ XX là Cát Hải) gồm: Phạm Hữu Danh, người làng An Khoái (từ 1886 là Đôn Lương); Ngô Trọng Triệu, người làng An Khoái; Đoàn Tài, người làng An Khoái; Vũ Hữu Lâm, người làng An Khoái; Vũ Dũng, người làng An Khoái; Phạm Hồng Vịnh, người làng Hòa Hy; Nguyễn Đình Quế, người làng Thiên Lộc (đầu thế kỷ XX là Gia Lộc); Nguyễn Minh Thành, người làng Thiên Lộc; Nguyễn Minh Luân, người làng Thiên Lộc; Nguyễn Hữu Hằng, người làng Thiên Lộc; Bùi Chiêu Minh, người làng Thiên Lộc; Nguyễn Minh Tuấn, người làng Thiên Lộc; Bùi Đăng Doanh, người làng Thiên Lộc; Bùi Giám, người làng Thiên Lộc; Tô Như Long, người làng Lương Lãnh; Tô Hữu Bản, người làng Lương Lãnh; Phạm Danh Nho, người làng Lương Lãnh,…
Theo bản đồ huyện Nghiêu Phong thời Đồng Khánh (1886), thì đảo Cát Hải gồm ba đảo theo thứ tự từ Nam lên Bắc là: Cái Vỡ (gồm 6 làng: Hoàng Châu, Văn Chấn, Thiên Lộc, Hòa Hy, Đôn Lương, Lục Độ); Cái Cụ (gồm 6 xóm, làng: Nghĩa Lộ, Trúc Kỳ, Phong Niên, An Tiếp, Đông Lâm và Động Bài) và Cái Tráp là đảo hoang. Và từ huyện lỵ Nghiêu Phong (làng Hòa Hy) có con đường bộ ngược lên tới hết làng Phong Niên (trước đó là An Phong), tổng Đôn Lương và qua cầu Lỗ Vỡ hay cầu An Tiếp trên kênh Cái Tráp sang tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng. Theo thứ tự từ Nam lên Bắc ta gặp kênh Cái Vỡ bắt đầu từ bên hữu ngạn sông Đồn (giang phận giữa làng Lương Năng và làng Động Bài) chảy về biển phía Tây (hải phận giữa làng Hoàng Châu và làng Phong Niên), nay thuộc khu vực bãi biển Hoàng Châu, huyện Cát Hải. Trên con kênh này phía tả ngạn ta gặp Thiên Lộc độ (天禄渡), tức bến đò Thiên Lộc thuộc làng Thiên Lộc, tổng An Khoái (Tổng này đầu Nguyễn gồm 10 làng, phường sau: Đồng Bài, Thiên Lộc, Hòa Hy, Lương Lãnh, Văn Minh, Lục Độ, Hoàng Châu, An Khoái, An Phong và phường Cao Mại. Vào thời Đồng Khánh, thì phủ Sơn Định kiêm nhiếp huyện Hoành Bồ, mà ở huyện Hoành Bồ cũng có tổng An Khoái và làng An Khoái, nên An Khoái của Nghiêu Phong đổi thành Đôn Lương, Văn Minh đổi thành Văn Chấn, An Phong đổi thành Phong Niên, Đồng Bài đổi thành Động Bài), huyện Hoa Phong, phủ Hải Đông, trấn Yên Quảng, nay thuộc thị trấn Cát Hải, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng.
Còn bên hữu ngạn kênh Cái Vỡ là An Phong độ (安豊渡), tức bến đò An Phong thuộc làng An Phong, tổng An Khoái, huyện Hoa Phong, phủ Hải Đông, trấn Yên Quảng. Vào thời Đồng Khánh (1886) là làng Nghĩa Lộ, tổng Đôn Lương, còn thời nay thuộc xã Nghĩa Lộ, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Vì tên Nôm của làng ngày là Sò, nên người dân địa phương gọi là bến đò Sò. Vào chừng cuối thời Lê – đầu thời Nguyễn, thì một số các nhà hảo tâm của địa phương đã bỏ tiền ra làm cầu đá, gần khu vực này, nay vẫn còn quán Chờ cách chùa Gia Lộc thời nay chừng trên hai trăm mét. Rồi vào thế kỷ XX do sự phát triển về dân số và quy hoạch lại toàn đảo, nên kênh Cái Vỡ bị san lấp.
Tiếp tục ngược lên phía Bắc ta gặp con kênh thứ hai là Cái Cụ, đây là ranh giới giữa đảo Cái Cụ và Cái Tráp. Theo các bậc cao niên ở đảo Cát Hải, thì vào những năm 60 – 70 thế kỷ XX khi đi bộ tới bán đảo Hà Nam phía trên, người dân chọn những lúc nước rặc lội qua kênh và lúc đó đảo Cái Tráp vẫn mênh mông là rừng ngập mặn. Sau này lãnh đạo thành phố Hải Phòng cho đào sâu kênh Cái Cụ này để tàu bè vào cảng Hải Phòng được thuận tiện và từ thời đó sang đảo Cái Tráp phải bằng các phương tiện giao thông đường thủy. Không hiểu vì sao, dựa vào tài liệu nào, mà nhân viên cục bản đồ thời nay lại ghi kênh Cái Cụ (trên internet) thành kênh Hà Nam.
Tiếp tục ngược lên phía Bắc ta gặp Cái Tráp, đây là một kênh không lớn bằng Cái Cụ và trước đây nó là tuyến đường thủy chính đi từ cửa biển vào cảng Hải Phòng. Vào đầu thời Nguyễn, thì nạn cướp biển xảy ra thường xuyên. Vì thế triều đình đã chi tiền từ ngân khố cho việc làm cầu Lỗ Vỡ trên kênh Cái Tráp từ làng Phong Niên, tổng Đôn Lương, huyện Nghiêu Phong sang làng Lưu Khê, tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng. Trang 414 sách “Đồng Khánh địa dư chí” ghi: “Cầu Lỗ Vỡ ở xã Lưu Khê tổng Hà Nam. Năm Tự Đức thứ 25 (1872) thuyền của bọn phỉ thường ra vào đó, đi thông vào sông Bạch Đằng quấy nhiễu, cướp bóc. Tỉnh trích suất tiền kho mua vật liệu làm cầu để tiện cho dân đi, mà cũng tuyệt đường thủy qua lại của bọn phỉ”. Hay xuôi về phía Tây một đoạn ngắn có cầu Cái Nếp ở địa phận thôn An Tiếp, xã Phong Niên. Năm Tự Đức thứ 26 (1873) thuyền bọn phỉ thường tới chỗ này ra vào quấy nhiễu cướp phá, tỉnh đã trích suất tiền kho để mua vật liệu dựng cầu cho người dân qua kênh, nhưng mục đích chính là để chặn đường thủy của bọn cướp biển.
Từ thời cách mạng (sau năm 1945), hay vào năm 1956 Thủ tướng Chính phủ đã cắt đảo Cát Hải và thị trấn Cát Bà về Hải Phòng, thì đảo Cái Tráp do hai xã là Đồng Bài và Nghĩa Lộ huyện Cát Hải quản lý. Về lịch sử hành chính, thì đảo này có từ cuối thời Lê Trịnh, nhưng nó chỉ là khu hoang hóa với sình lầy và sú vẹt. Từ cuối thế kỷ XX mới có cư dân ra khai hoang, đắp đê phục vụ việc nuôi trồng thủy hải sản. Rồi từ năm 2025, được tập đoàn VinFast đầu tư thành khu vui chơi giải trí, công viên, nghỉ dưỡng với vốn đầu tư 3.500 tỷ đồng. Chúng tôi đưa ra những minh chứng trên để bạn đọc hiểu rõ hơn quá trình hình thành thực địa tự nhiên của các địa phương ven biển diễn ra với một hành trình dài hàng trăm năm, kể từ lúc có người đến khai hoang đến khi có cộng đồng dân cư sinh sống.
Trước đây người dân hay quan lại của đảo cát này muốn tới các nơi khác chủ yếu phải đi bằng đò dọc từ bến chính An Khoái, thời Đồng Khánh (1886) đổi là Đôn Lương, sau là khu vực bến Gót trên sông Đồn. Còn sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi là Đồng Bài giang (同排江), tức sông Đồng Bài, gọi tắt là sông Bài, vì phía thượng lưu sông là làng Đồng Bài thuộc tổng An Khoái, huyện Hoa Phong. Hai từ Đồng Bài (同排) nghĩa nôm na là “Bãi thuyền bè”, đến thời Đồng Khánh (1886) thì đổi tên thành Động Bài (洞排). Vì ở phường Cao Mại, tổng An Khoái sau đổi thành Cao Minh, thời cách mạng là xã Cao Minh, huyện Cát Hải, nay thuộc thị trấn Cát Hải, huyện Cát Hải. Ngoài ra tại khu vực này có đồn thuế quan và gần đó có “Bảo (đồn quân sự) Thiếp Hải ở cách huyện Nghiêu Phong 2 dặm về phía Đông, chu vi 57 trượng 2 thước, cao 2 thước 9 tấc, đắp năm Minh Mạng thứ 21 (1868), có 30 thủy binh và bộ binh, 1 suất đội, 1 thuyền lớn để làm việc biên phòng”(trang 50 sách Đại Nam nhất thống chí). Vì thế dân gian gọi là Đồn Giang (屯江), tức sông Đồn.
Cầu Tân Vũ - Lạch Huyện thời nay
Cũng theo sách này còn có: “Bảo (đồn quân sự) An Khoái cách huyện Nghiêu Phong 4 dặm về phía Tây Nam, lũy đất, chu vi 32 trượng, cao 6 thước, đắp năm Thiệu Trị thứ 5 (1846), có 60 lính, một suất đội”, nay thuộc địa phận phía Tây Nam của thị trấn Cát Hải. Hay còn một trạm kiểm sát ở đảo Cát Hải có lính gác nữa là Cửa ải Bồ Câu ở phía Tây sát biển của làng Phong Niên, tổng Đôn Lương, nay thuộc xã Nghĩa Lộ, huyện Cát Hải, Hải Phòng.
Ngoài bến đò dọc chính tại Đôn Lương ở sông Đồn ra, thì tại phía Tây của đảo còn bến đò dọc ở cửa Cái Vỡ nằm phía Tây làng Hoàng Châu và làng Phong Niên, tổng Đôn Lương, nay thuộc xã Nghĩa Lộ, huyện Cát Hải. Tới thời cơ chế thị trường, thì khu vực này còn bến phà Đình Vũ (thuộc thực địa làng Định Vũ xưa, nay thuộc phường Đông Hải II quận Hải An) – Ninh Tiếp (thuộc xã Nghĩa Lộ, huyện Cát Hải). Vào ngày 02 tháng 09 năm 2017, thì cầu vượt biển Tân Vũ – Lạch Huyện khánh thành và phà Đình Vũ – Ninh Tiếp tạm ngừng hoạt động.
Hay khi nói về lỵ sở của huyện đảo này, thì chúng tôi chỉ có tư liệu minh chứng vào thời Tự Đức (1848 - 1880) nó nằm ở làng Hòa Hy sát làng Đôn Lương mà thôi. Còn từ cuối thời Lê Trịnh (1592 - 1788) trở về trước, chúng tôi chưa có chứng cứ để xác định huyện lỵ Hoa Phong ở đảo Cát Hải hay ở nơi khác. Có thể nó nằm ở một địa phương khác nằm sâu trong nội địa. Chẳng khác nào trấn lỵ Yên Quảng, sau là tỉnh lỵ Quảng Yên mãi tới năm Gia Long thứ nhất (1802) mới di dời lỵ sở từ tổng Lai Vu, huyện Kim Thành, trấn Hải Dương, nay thuộc huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương về gò núi làng Quỳnh Lâu, huyện Yên Hưng, nay là thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh.
Hay thời nay huyện đảo Bạch Long Vỹ được thành lập từ năm 1992, song một thời gian dài toàn bộ lãnh đạo huyện vẫn làm việc tại văn phòng 24 Hồ Xuân Hương, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Hay huyện đảo Trường Sa được thành lập năm 1982, song tới nay lãnh đạo huyện vẫn làm việc ở thành phố Nha Trang? Thực tế các huyện đảo từ xa xưa tới nay đều có quyết định của Nhà nước, nhưng dân số chỉ tương đương với một làng hay một phường trong đất liền mà thôi. Những chứng cứ trên phần nào giúp đỡ những người viết sử thời nay có cái nhìn khách quan hơn về “thủ phủ” của huyện “Cát Hải cổ xưa”./.
NGỌC TÔ
Các tin khác
-
CÁI TÊN NÚI ĐÈO (THỦY NGUYÊN) CÓ TỪ BAO GIỜ?
-
THÁI BÌNH GIANG (太平江), TỨC SÔNG THÁI BÌNH
-
LỤC ĐẦU GIANG (六頭江), TỨC SÔNG LỤC ĐẦU
-
SÔNG ĐUỐNG DO TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM ĐẶT TÊN
-
SÔNG TAM BẠC Ở HẢI PHÒNG
-
ĐẤT CẢNG HẢI PHÒNG
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
TẠI SAO LÀNG CAN TRÌ LẠI ĐỔI THÀNH HU TRÌ?
-
ĐỊA DANH “ĐẠI THAN” THỜI TRẦN NẰM Ở ĐÂU?