VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
TÔ NGỌC THẠCH
THÁI BÌNH GIANG (太平江), TỨC SÔNG THÁI BÌNH
Có một con sông lớn trong hệ thống sông ở miền Bắc nước ta, cùng với hệ thống sông Nhĩ, hay Nhị bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung QuốcTHÁI BÌNH GIANG (太平江), TỨC SÔNG THÁI BÌNH
.
Có một con sông lớn trong hệ thống sông ở miền Bắc nước ta, cùng với hệ thống sông Nhĩ, hay Nhị bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (từ năm 1890 là sông Hồng) là hai hệ thống sông chính của đồng bằng sông Hồng (hay Bắc Bộ), đó là Thái Bình giang (太平江), tức sông Thái Bình. Tại sao đoạn hạ lưu sông này chỉ chảy qua ranh giới giữa tỉnh Thái Bình và thành phố Hải Phòng có vài cây số, mà nó mang tên Thái Bình. Ngay trong “Bách khoa toàn thư” trên internet cũng ghi: “Mặc dù tên sông trùng với tên tỉnh Thái Bình, nhưng sông không chảy qua tỉnh này…”. Nếu nhìn rộng ra một chút, thì thời gian chính thức thành lập tỉnh Thái Bình và thời gian sông này mang tên Thái Bình vào cùng năm 1890. Chẳng khác nào trường hợp ở nội đô Hải Phòng có Trường phổ thông Trung học Ngô Quyền không nằm ở quận Ngô Quyền, mà lại nằm ở quận Lê Chân. Hay tại huyện Thủy Nguyên thành phố Hải Phòng lại có hồ mang tên Đà Nẵng chẳng hạn. Còn thực tế con sông này từ lúc đầu mang tên Thái Bình đã chảy qua nhiều tỉnh tính từ thượng lưu xuống hạ lưu là: Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Kiến An (sau là Hải Phòng) và Thái Bình.
Chúng tôi tạm phân lịch sử nước ta làm ba giai đoạn để bạn đọc rõ hơn về việc đặt tên cho sông ngòi: Thời phong kiến cổ (tính từ thời Đồng Khánh (1886 - 1888) trở về trước, thời này nước ta còn dùng chữ Hán); Thời Pháp thuộc (từ cuối thế kỷ XIX đến cách mạng năm 1945, thời kỳ dùng chữ quốc ngữ) và thời cách mạng (sau năm 1945). Theo cách đặt tên truyền thống của cha ông ta từ thời phong kiến cổ, thì mỗi một con sông với một độ dài nhất định và thường lấy địa danh thượng lưu làm tên cho sông. Các con sông được mang tên địa phương nào đó, thì địa phương đó có quyền sử dụng khai thác, nhưng cũng có nghĩa vụ gìn giữ, bảo vệ, đắp đê phòng chống lũ lụt… Ví như: Tranh Xuyên (琤川), tức sông Tranh được tính từ ngã ba Tranh (giang phận ba tỉnh Hải Dương, Hải Phòng và Thái Bình thời nay) kéo dài xuống phía hạ lưu đến khu vực tổng An Lạc huyện Vĩnh Lại, nay thuộc xã Tiền Phong, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, còn bên hữu ngạn là tổng Tô Xuyên, huyện Phụ Dực, phủ Thái Bình.
Còn đoạn nối tiếp với sông Tranh là Tô Xuyên (蘇川), tức sông Tô được tính từ làng Tô Xuyên cổ (bên tả ngạn là tổng An Lạc, huyện Vĩnh Lại) đến khu vực giáp với sông Kim (từ 1890 là sông Thái Bình). Hay đoạn sông từ hạ lưu sông Lục Đầu theo hướng Nam xuống là Lâu Khê giang (搂溪江), tức sông Lâu Khê, chảy từ làng Lâu Khê, tổng La Đôi, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách về phía Nam một đoạn và nối tiếp là Hàm giang (邯江), tức sông Hàm chảy đến ngã ba Kinh Câu và xuống phía hạ lưu. Hay đoạn hạ lưu sông từ ngã ba Quý Cao theo hướng Nam làm ranh giới cho huyện Tiên Lãng và Vĩnh Bảo thời nay ra tới cửa biển là Kim Giang (金江), tức sông Kim. Còn đoạn từ khu vực cầu Đăng ngày nay hắt xuống phía biển mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt tên trong văn chương của Người là Hàn Giang (寒江), hay Tuyết Giang (雪江) ám chỉ dòng sông “Lạnh Lẽo” mà thôi, chứ đoạn này là hạ lưu sông Kim và cửa biển thời Mạc mang tên Kim Hải khẩu, tức cửa biển Kim.
Trong tay tôi có nhiều tấm bản đồ hành chính tỉnh Hải Dương do người Pháp làm vào các năm 1890, 1909, 1947, hay bản đồ hành chính tỉnh Kiến An do người Pháp làm năm 1909 và bản đồ tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang do người Pháp làm năm 1909, năm 1947, thì sông Thái Bình được tính từ khu vực ngã ba sông Thương và sông Lục Nam, còn bên tả ngạn sông là thực địa huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương. Nôm na ta có thể hiểu sông Thái Bình được tính từ phần cực Tây của tỉnh Hải Dương thời Pháp thuộc kéo xuống qua khúc Lục Đầu cổ rồi theo hướng Nam qua các sông Lâu Khê cổ, sông Hàm cổ chảy đến ngã ba Phù Kinh, rồi ngã ba Thiệu Mỹ (sau là ngã ba Mía) rồi nối thẳng theo hướng Nam qua tổng Đại Công bên tả ngạn và các làng bên hữu ngạn sông của huyện Tứ Kỳ là: An Định, Mậu Công, An Tư và Quý Cao rồi đổ ra sông Luộc ở khu vực đền Chủ tịch Tôn Đức Thắng cách cầu Quý Cao về phía hạ lưu sông một đoạn chừng vài trăm mét thời nay. Đoạn sông này khá rộng, ngang ngửa với khúc hạ lưu của sông Luộc (thời Pháp thuộc (1905) sông Luộc còn mang tên khác là canal des Bambous, tức kênh Tre). Tiếp tục sông Thái Bình chảy về hướng Nam làm ranh giới cho huyện Tiên Lãng và huyện Vĩnh Bảo thời nay và tới khu vực Ngải Am cổ (nay là xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo). Tại đây sông Hóa đổ vào sông Thái Bình và tiếp tục theo hướng Nam vài cây số tới cửa biển Thái Bình.
Theo cách đặt tên truyền thống từ thời phong kiến cổ, ông cha ta thường lấy địa danh phía thượng lưu làm tên cho sông. Còn từ thời Pháp thuộc (cuối thế kỷ XIX về sau), thì việc đặt tên cho sông được làm lại làm ngược lại, tức lấy địa danh phía hạ lưu làm tên cho sông. Ví như: Sông Hóa sau này lấy bến Hóa ở khu vực chùa Bến (Cổ Am) phía hạ lưu sông làm tên, tức sông Hóa sau này bằng sông Tranh cổ và sông Tô cổ cộng lại. Hay sông Cấm sau này bằng sông Cấm thời cổ và sông Kiền Bái cổ cộng lại. Hay sông Giá thuộc đạo Đông Triều (năm 1890) bằng sông Mỹ cổ và sông Triều cổ cộng lại. Hay sông Văn Úc (năm 1890) bằng sông Dương Úc cổ, sông Hổ Mang cổ… cộng lại. Vì vậy sông Thái Bình từ thời Pháp thuộc (1890) được lấy địa danh phía hạ lưu giáp biển của phân phủ Thái Bình (太平) thuộc trấn Sơn Nam Hạ làm tên cho sông. Tức sông Thái Bình sau này bằng sông Kim cổ, sông Hàm cổ, sông Lâu Khê cổ, sông Lục Đầu cổ… cộng lại. Cái tên Thái Bình (太平) có nghĩa nôm na là “yên ổn lớn” hay “rất êm đềm”, do vậy khi người Pháp lấy miền đất phía Bắc của tỉnh Nam Định và phía Nam của tỉnh Hưng Yên để trở thành đơn vị hành chính cấp tỉnh vào năm 1890 cũng lấy tên Thái Bình.
Bản đồ huyện Vĩnh Bảo tỉnh Hải Dương năm 1909
Vì sông Thái Bình tới đầu thế kỷ XX vẫn duy trì lượng nước lớn từ thượng lưu đổ về. Hay bề ngang sông đoạn hạ lưu của sông Thái Bình không lớn lắm, việc tiêu úng chậm, thường xuyên xảy ra vỡ đê. Do vậy vào năm 1936 chính quyền thực dân Pháp cho đào con kênh qua tổng Kinh Khê, huyện Tiên Lãng thành hai phần riêng biệt, nối liền sông Thái Bình và sông Văn Úc với nhau. Lúc đầu nó mang tên là sông (kênh) Mới, sau này còn gọi là sông Kinh Khê và câu sấm Trạng bắt đầu hiệu ứng:
Bao giờ Tiên Lãng chia đôi
Sông Hàn nối lại thì tôi mới về
Rồi vào những năm 50 - 60 thế kỷ XX công trình Bắc Hưng Hải ra đời, thì nhiều nhánh sông khác được triển khai như sông Gùa, sông Cầu Xe, sông Mía… thì dòng chảy sông Thái Bình từ thượng nguồn về đã khác và sông thành hai phân khúc. Khúc thượng lưu được tính từ sông Lục Nam tới ngã ba Mía (giang phận của ba huyện Tiên Lãng, Thanh Hà và Tứ Kỳ), ngoài ra người ta đào thêm nhiều nhánh sông, kênh rạch hai bên tả hữu như sông Gùa ở huyện Thanh Hà nối với sông Văn Úc. Hay khi chảy tới ngã ba Mía dòng chảy rẽ theo phía trái vào sông Mía rồi ra sông Văn Úc (sông Hổ Mang cổ) rồi rẽ phải theo hướng Nam chảy ra cửa Văn Úc. Còn một dòng chảy khác rẽ phải theo sông Cầu Xe vào huyện Tứ Kỳ rồi lòng vòng ra sông Luộc, rồi chảy về khúc hạ lưu sông Thái Bình. Còn đoạn sông từ ngã ba Mía (giang phận ba huyện Thanh Hà, Tứ Kỳ và Tiên Lãng) tới Quý Cao thành đoạn sông chết từ thập niên 60 thế kỷ XX và giờ thành nơi cày cấy, nuôi trồng thủy hải sản và khu dân cư mới hết rồi.
Còn khúc hạ lưu được tính từ giang phận của ba huyện Tứ Kỳ, Vĩnh Bảo và Tiên Lãng, tức từ làng Lác xã Giang Biên, huyện Vĩnh Bảo kéo xuống tới của biển Thái Bình. Đoạn hạ lưu này làm ranh giới cho hai huyện Vĩnh Bảo và Tiên Lãng, còn đoạn gần ra cửa biển làm ranh giới cho huyện Thái Thụy – Thái Bình và huyện Tiên Lãng – Hải Phòng.
(còn nữa)
NGỌC TÔ
T
.
Các tin khác
-
CÁI TÊN NÚI ĐÈO (THỦY NGUYÊN) CÓ TỪ BAO GIỜ?
-
LỤC ĐẦU GIANG (六頭江), TỨC SÔNG LỤC ĐẦU
-
SÔNG ĐUỐNG DO TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM ĐẶT TÊN
-
SÔNG TAM BẠC Ở HẢI PHÒNG
-
XANH BẾN NGHIÊU PHONG
-
ĐẤT CẢNG HẢI PHÒNG
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
TẠI SAO LÀNG CAN TRÌ LẠI ĐỔI THÀNH HU TRÌ?
-
ĐỊA DANH “ĐẠI THAN” THỜI TRẦN NẰM Ở ĐÂU?