/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

TÔ NGỌC THẠCH

SÔNG BẠCH ĐẰNG (HAY RỪNG)?

Bạch Đằng Giang (白藤江), tức sông Bạch Đằng và được gọi tắt trong văn nói là sông Dầng, hay sông Rừng.

SÔNG BẠCH ĐẰNG (HAY RỪNG)?
.
Sông Rừng(1) chẳng thấy rừng đâu
Thấy bao con sóng bạc đầu gối nhau

Bạch Đằng tên gọi từ lâu
In vào tâm thức xa sau cõi người

Hai tên là một mà thôi
Máu còn loang mãi(2) rối bời hồn ta?
__________
     (1): Bạch Đằng Giang (白藤江), tức sông Bạch Đằng và được gọi tắt trong văn nói là sông Dầng, hay sông Rừng. Cụm từ Bạch Đằng Giang (白藤江), thì chữ Bạch (白) có nghĩa là màu trắng, chữ Đằng (藤) có nghĩa là “loài thực vật mọc thành bụi cây quấn quýt” và chữ giang (江) có nghĩa là sông lớn. Và cụm từ này có nghĩa nôm na là “sông có rừng sóng bạc đầu”, hay gọi theo dân gian là “sông Thần”. Ngoài ra sông này còn có tên gọi khác vào thời Lê sơ (1428 – 1527) là Vân Cừ (澐渠), nghĩa là sông “có sóng lớn”, hay “nước chảy xoáy cuồn cuộn”, từ thời nhà Mạc về sau gọi đoạn thượng lưu sông từ ngã ba thượng lưu sông Giá đến ngã ba hạ lưu sông Giá là Thành Triền (城躔), hay Thành Dền theo âm Nôm và từ thời Pháp thuộc (1890) đoạn sông này mang tên sông Đá Bạc, hay còn gọi là Đá Bạch… Theo thời gian biển mỗi ngày một lùi xa và tới cuối thời Lê Trịnh (1592 – 1788) thì sông Bạch Đằng đã tịnh tiến xuống hạ lưu sông Bạch Đằng cổ và xuôi xuống phía cửa biển. Theo bản đồ thời Đồng Khánh (1886 – 1888), thì sông Bạch Đằng được tính từ ngã ba sông Uông, tức từ khu vực cầu Bến Rừng thời nay hắt xuống phía hạ lưu. Còn Bạch Đằng độ (白藤渡), tức bến Bạch Đằng, gọi tắt là bến Đằng và gọi theo tên Nôm của từ Đằng là Rừng hay Dầng. Vì thế bến đò (phà, tàu) Rừng là bến Bạch Đằng. Sau này nhiều tỉnh thành khác cũng lấy tên bến Bạch Đằng, nên khi viết địa danh bến Bạch Đằng cần ghi tỉnh thành để khỏi nhầm lẫn.
       Theo cách đặt tên truyền thống của cha ông ta thời phong kiến (từ thời Thành Thái trở về trước), thì thường lấy địa danh phía thượng nguồn làm tên cho sông, tức sông Bạch Đằng được tính từ giáp (xóm) chài Đằng (藤村) thuộc châu Đông Triều (东潮州) xuôi xuống tới cửa biển. Vì giáp chài Đằng này tên Nôm là Dầng hay Rừng, nên trong văn nói tắt thường được gọi là sông Dầng, hay sông Rừng, chứ không phải như các chuyên gia làm “Từ điển Bách khoa Hải Phòng” ghi ở trang 41 giải thích như sau: “Dầng” có thể có nghĩa “dâng lên”, “lên cao” và thực tế tất cả các sông ở vùng ven biển trên thế giới đều dâng lên”, “lên cao” theo thủy triều. Hay các chuyên gia khác phía Quảng Ninh giải thích bên tả ngạn sông có dải rừng già từ Yên Lập tới bên tả ngạn và trải dài theo sông, nên gọi là sông Rừng. Và thực tế không có dải rừng già nào ở khu vực bên tả ngạn, hay hữu ngạn sông Bạch Đằng cả, mà chỉ có bạt ngàn sú vẹt hay bần mà thôi.
     (2): Vào năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) Thám hoa Giang Văn Minh đi sứ nhà Minh, đã bị vua Tàu là Minh Tư Tông ngạo mạn ra cho sứ bộ một vế đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” (銅柱至今苔已綠). Nghĩa là: “Đồng trụ đến giờ rêu vẫn mọc”, hay “Đồng trụ đến giờ rêu mọc rậm”. Vế đối này nhắc tới việc chiếc cột đồng Mã Viện vẫn còn ở đâu đó sau một thời gian dài và đã mọc rêu, chính là nói đến việc Mã Viện dẹp cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, ngụ ý nhà Minh vẫn đang kiểm soát Đại Việt. Trước sự ngạo mạn đó, sứ giả Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” (藤江自古血猶紅), nghĩa là: “Bạch Đằng thuở trước máu còn loang”, hàm ý rằng các cuộc xâm lược Đại Việt của triều đình phương Bắc luôn chuốc lấy thất bại. Mặc dù ngay sau đó ông bị Minh Tư Tông trả thù đê tiện bằng cách trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc này xảy ra vào ngày 02/06/ Kỷ Mão (1639). Nhưng Minh Tư Tông vẫn kính trọng ông và sợ bị Đại Việt trả thù vì tình hình nhà Minh lúc đó đang ngày càng nguy cấp do các cuộc nổi dậy trong nước, cũng như sự xâm lấn của người Mãn Châu bên ngoài, nên Minh Tư Tông không muốn có thêm một đối thủ nào nữa. Và đã cho ướp xác ông bằng thủy ngân và đưa thi hài ông về Đại Việt.
NGỌC TÔ
.