/Những vòm liễu nhúng chiều vào đáy nước/ Thơ Thanh Tùng

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

TÔ NGỌC THẠCH

NGUỒN GỐC HỌ TÔ NỘI TẠ

Khi đất nước xảy ra chiến tranh, chính quyền địa phương lựa chọn các trai tráng được gọi là “tráng hạng”, hay “tráng đinh” và  chàng thanh niên Tô Văn Trực được chọn vào lực lượng vũ trang chính quy

NGUỒN GỐC HỌ TÔ NỘI TẠ

.

          Vào trung tuần tháng ngâu, cái nắng chói chang của mùa hạ đã nhường chỗ cho những cơn heo may đầu mùa dịu dàng với bao cảm xúc nồng nàn man mát. Theo truyền thuyết, vào thời gian này là Ngưu Lang và Chúc Nữ được gặp nhau sau một năm cách xa dài đằng đẵng. Họ đứng trên cầu Ô Thước được bắc qua sông Ngân hàn huyên và nhớ thương khôn xiết bởi mối tình trớ trêu của mình. Chính những giọt nước mắt lã chã rơi của cặp uyên ương này, đã tạo ra cơn mưa dai dẳng với những nỗi buồn diệu vợi bởi sự hợp tan trong ranh giới mong manh đời người. Dẫu biết thời tiết vào mùa này sẽ không thuận lợi như vòng xoáy quy luật, nhưng sao lòng ta vẫn thổn thức bâng khuâng. Giấc mơ đêm qua còn vương màu hoài niệm về một mùa ngâu mong ngóng đợi chờ.

       Như thường lệ, sáng chủ nhật trung tuần tháng Bảy âm lịch, anh em tôi lại hẹn nhau về làng Nghĩa Lý (tên Nôm là Si), xã Hiệp Hòa (từ 2025 là Vĩnh Hòa), huyện Vĩnh Bảo ngoại ô thành phố Hải Phòng để viếng thăm lăng mộ Quận Chúa thời Lê Trịnh, đồng thời là trắc thất cụ Tổ họ Tô Nội Tạ, hay còn gọi là lăng thờ Nữ Trung Anh. Theo Ngọc phả họ Tô Nội Tạ ghi trên thẻ tre và ghi chép của Chánh hương hội, Trưởng tộc đời thứ sáu Tô Văn Tiệp, thì vào ngày rằm tháng Bảy năm Giáp Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 35 (1774) đời vua Lê Hiến Tông và Chúa Trịnh Sâm, từ Quân doanh theo lộ trình đường thủy về quê, cụ Tổ họ Tô Nội Tạ là Tướng công Tô Quý Công Phúc Trực, hiệu là Tô Công Tự Phúc Hiền (húy là Tô Văn Trực) cùng Phu nhân là Quận Chúa (húy là Trịnh Thị Ngọc Biêng) đang bụng mang dạ chửa về quê ra mắt họ hàng. Lúc qua làng Lô Đông (tên Nôm là Sưa) tới đầu làng Nghĩa Lý (tên Nôm là Si) thì trời đã tối muộn. Cụ ông để cụ bà ở lại quán trọ, còn mình về quê cách đó một đoạn chừng hơn hai cây số chuẩn bị, sớm mai cùng các thành viên trong gia tộc lên rước dâu.

       Không may đêm hôm định mệnh ấy “Gió gào thét, trời mịt mùng dông tố. Chớp loằng nhoằng tiếng sét nổ inh tai. Cành sộp xanh nằm bên đường đau đớn. Mưa rơi hoài nặng trĩu xé lòng ai”, do phải di chuyển quãng đường quá xa, phương tiện duy nhất thời ấy chỉ là ngựa cộng với thời tiết nắng mưa bất chợt, cụ bà bị cảm đột ngột và qua đời vào đêm 15 rạng ngày 16 tháng 7 năm Giáp Ngọ (1774). Thời nay là thực địa nhà ông Trương Công Cùi và bà Phạm Thị Giới, nay là thực địa nhà bác Trương Công Đức và bác Trương Công Hậu thuộc thôn Nghĩa Lý, xã Hiệp Hòa, từ 2025 là Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Bảo. Sớm hôm sau cụ ông và người thân lên đón, thì mối đã vùi lấp hết tử thi. Theo phong tục địa phương, đây là huyệt đất tốt mà trời đã dành cho và chôn giùm, nên dân gian gọi là “thiên táng”.

       Tục truyền những gia đình có “Thiên táng”, tương lai dòng tộc đó sẽ thịnh vượng, phát đạt đặc biệt là đường khoa cử. Vì vậy mộ cụ bà cứ để nguyên mà bồi đất cao lên thôi. Ngay sau đó đền thờ cụ bà được xây dựng, tượng cụ bà được tạc bằng gỗ thơm đặc biệt và thờ cúng tại đây. Khi khấn vái, hậu duệ họ Tô Nội Tạ và cư dân Nghĩa Lý đều gọi Bà với tên gọi thiêng liêng là Anh Linh Thổ Kỳ Tôn thần.

      Trải qua nhiều năm tháng anh linh của Quận Chúa đã thấm đẫm vào đời sống tâm linh của hậu duệ họ Tô Nội Tạ và thôn dân làng Nghĩa Lý, tổng Bắc Tạ, sau là tổng Oai Nỗ. Dù người dân sống tại nơi đây hoặc sống xa quê, mỗi khi về quê thường đến đền cụ Bà để tỏ lòng thành kính, cầu xin được bình an, che chở. Nếu có việc oan ức gì thì thường cầu xin Thần chứng giám gặp dữ hóa lành, giáng họa trừng phạt những kẻ độc ác vô luân... Thần còn là lực lượng tiếp sức cho dân trong các cuộc chống ngoại xâm, dập tắt thiên tai dịch bệnh bằng con đường âm phù.

           Thần sắc năm Khải Định thứ 9 (1924) cho Anh Linh Thổ Kỳ Tôn thần:

          Phiên âm Hán Việt (Vũ Hoàng):

          Sắc Hải Dương tỉnh, Vĩnh Bảo huyện, Nghĩa Lý xã phụng sự Anh Linh Thổ Kỳ Tôn thần, hộ quốc tý dân nhẫm trứ linh ứng tứ kim chính trực.

Trẫm tứ tuần đại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật trứ phong vi Đôn Ngưng Dực Bảo Trung Hưng Tôn thần, chuẩn kỳ phụng sự, thần kỳ tương hữu bảo ngã lê dân.

          Khâm tai!

          Khải Định cửu niên thất nguyệt nhị thập ngũ nhật.

          Dịch nghĩa (Vũ Hoàng):

          Sắc cho xã Nghĩa Lý, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương lâu nay thờ phụng Anh Linh Thổ Kỳ Tôn thần hộ quốc tý dân, linh ứng đã rõ.

Trẫm nhân việc mừng thọ tuổi 40, mở lễ đại khánh tiết, vẫn giữ phong cho thần là Đôn Ngưng Dực Bảo Trung Hưng Tôn thần, cho phép dân làng được thờ phụng như trước.

          Mong thần hãy che chở và giúp đỡ cho dân lành của Trẫm.

          Hãy tuân theo sắc lệnh này.

          Ngày 25/07 năm Khải Định thứ 9 (1924).

      Trải qua những thăng trầm của lịch sử và sự “gặm nhấm” của thời gian, đền thờ Quận Chúa ở Nghĩa Lý bị xuống cấp trầm trọng. Hậu duệ đời thứ 6 gồm các cụ Tô Văn Rực, Tô Văn Tiệp, Tô Văn Nhuận, Tô Văn Trân, Tô Văn Hán, Tô Văn Luyện, Tô Bá Thiệu đã trùng tu lại khá bề thế, khang trang với diện tích khoảng một thước ta vuông. Rồi tiếp theo là chiến tranh chống Pháp bước vào giai đoạn ác liệt nhất, giặc về càn quét bắt phá đền, lấy gạch nộp xây bốt Hà Phương, các hậu duệ đời thứ 6 đã chuyển rương tượng, sắc phong vào chùa Nghĩa Lý thờ. Mãi đến sau ngày hòa bình (1955), đền thờ Quận Chúa được các cụ làm lại làm bằng tre đôi ba lần, nhưng việc cúng giỗ hàng năm vẫn duy trì đều đặn cả ở chùa và ở đền.

      Nhớ lại vào cuối thập niên sáu mươi thế kỷ XX, tôi và bố tôi lên Nghĩa Lý thắp hương đền Quận Chúa. Trong lúc ngồi trò chuyện, ông Trương Công Cùi, người hương khói đền kể rằng: Ngoài pho tượng quý của Quận Chúa ra, thì còn hai pho tượng thị tỳ (người hầu gái) được đặt hai bên. Vào một đêm nọ, có người làng Nghĩa Lý tên là Đào Viết Viết vào trộm hai pho tượng thị tỳ, sáng sớm hôm sau đem đi chợ Lầy tại xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình bán. Không biết trời xui đất khiến thế nào, hậu duệ ngành trưởng họ Tô Nội Tạ cũng có mặt tại phiên chợ hôm đó thấy thế đã bỏ tiền ra chuộc lại. Chẳng biết sao, người họ Đào Viết kia biết, ngay đêm hôm đó đã thắt cổ tự tử ngay cạnh đền Quận Chúa và các bậc cao niên ở Nghĩa Lý cho rằng vào lấy trộm tượng hầu của Cụ, nên bị Cụ phạt… Đây cũng chỉ là một trong muôn vàn trường hợp về sự linh ứng của thần Anh Linh Thổ Kỳ này mà thôi...

      Những năm chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ và thời kỳ bao cấp cuộc sống của nhân dân miền Bắc gặp nhiều khó khăn, cơ cực. Gạo, ngô còn không đủ ăn một bữa, nói gì đến các việc xây dựng lại đền. Cộng với sự hà khắc của luật “chống mê tín dị đoan”, nên không một dòng tộc nào, một địa phương nào dám xây mới, trùng tu các công trình văn hóa của dòng tộc mình, của địa phương mình. Mãi đến tháng 02 năm 1981 đền thờ Quận Chúa mới được ông Tô Văn Tịu, hậu duệ đời thứ 7 từ thành phố Hồ Chí Minh về xây dựng lại. Trên đền ghi ba chữ nho, chúng tôi tạm dich nghĩa là: “Nữ Trung Anh”. Còn hai bên là hai câu đối 5 chữ: “Họ Tô Văn tu tạo – Đền Nghĩa Lý linh thiêng”. Trải qua năm tháng đền đã xuống cấp. Vào những ngày cuối năm 2024, đền Quận Chúa lại được con cháu ngành trưởng là nhà ông Tô Xuân Tinh và bà Bùi Thị Lan từ thành phố Cẩm Phả về xây dựng lại. Đây thực sự là một công trình ý nghĩa của hậu duệ họ Tô Nội Tạ đối với bậc tiền nhân mà mình tôn kính.

      Cuộc đời ngắn ngủi của Quận Chúa là tấm gương sáng cho các hậu duệ họ Tô Nội Tạ và người dân địa phương noi theo. Khi nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp của Quận Chúa thời Lê – Trịnh, đồng thời là Phu nhân cụ Tổ họ Tô Nội Tạ cách nay hơn hai chục năm, bao cảm xúc trong tôi thăng hoa và mấy vần thơ mang tên Tháng năm mãi tươi xanh ra đời: 

Một phu nhân Tô tộc tới làng Si

Thành Thổ thần hơn hai trăm năm trước

Vóc dáng ra sao cháu con đâu biết?

Số mệnh đời người ngắn ngủi dạt xô

 

Vào giữa đêm ngâu bất chợt dông mưa

Người hóa thân mình vào trong lòng đất

Che chở cho dân, giải bao oan khuất

Giúp mùa tốt tươi mưa thuận gió hòa

 

Sắc hiệu vua ban ngày một loang xa

Tôn thần làng Si cũng như làng Nội

Đường thời gian điệp trùng muôn diệu vợi

Cùng đức Tô giữ vùng đất yên bình

 

Cho tháng năm dằng dặc mãi tươi xanh

Giấc chiêm bao nảy chồi non lộc biếc

Bồi lắng vỉa đời dày thêm trầm tích

Và nụ cười thêm tuổi mỗi thần dân?...         

      Theo như gia phả cũ do Trưởng tộc Tô Văn Mai cung cấp và các hậu duệ đời trước truyền lại, thì ông Tổ họ Tô Nội Tạ có tên là Tô Quý Công Phúc Trực, hiệu là Tô Công Tự Phúc Hiền sinh năm Cảnh Hưng thứ 11 (Canh Ngọ, 1750), gốc gác từ họ Tô Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc, từ 1948 thuộc Hưng Yên, sau làm con nuôi cho nhà họ Phạm Nguyễn ở xã Đường Thâm, tổng Đường Thâm, huyện Chân Định, phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam Hạ, nay thuộc xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, nơi có nghề chạm bạc nổi tiếng và là nơi sinh ra Thứ phi Triệu Vũ Đế - Vua nước Nam Việt cổ.

      Ngày nay vẫn còn đền thờ Hoàng đế Triệu Đà và đền thờ Thứ phi Trình Thị, được xây dựng rất bề thế từ rất xa xưa tại làng Đồng Xâm, xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Hàng năm cứ đến ngày mồng 01 tháng 04 âm lịch là hội làng Đồng Xâm lại mở. Nhân dân trong vùng cũng như du khách thập phương nô nức về đây tham gia nhiều trò chơi dân gian, những hoạt động văn hóa đặc sắc cho đến hết ngày mồng 3 tháng 4 như hát ca trù, hát chèo, rước thánh sư, tế lễ, đua thuyền trên sông Vông…

     Quay lại thời gian!

      Cậu bé Tô Văn Trực sinh ra và lớn lên tại một gia đình nông dân nghèo khó, có gương mặt sáng, nước da trắng hồng, giọng sôi nổi cởi mở. Bố mẹ mất sớm, nên cậu phải đi cày thuê cuốc mướn để kiếm sống. Với đức tính khiêm nhường, phong cách giản dị gần gũi, chân thật, nhưng thông minh, hiếu học, có ý trí và đức tính cần cù lao động, nên cậu bé Tô Văn Trực được bà con làng tổng quý mến. Chẳng mấy chốc Tô Văn Trực đã trở thành chàng trai thanh niên khôi ngô tuấn tú của miền quê lúa nước.

     Khi đất nước xảy ra chiến tranh, chính quyền địa phương lựa chọn các trai tráng được gọi là “tráng hạng”, hay “tráng đinh” và  chàng thanh niên Tô Văn Trực được chọn vào lực lượng vũ trang chính quy từ năm Cảnh Hưng thứ 29 (1768). Thông thường thời ấy nam giới phải đi nghĩa vụ sáu năm, nhưng khi đất nước có chiến tranh thì thời gian phục vụ trong quân ngũ không có giới hạn và chàng thanh niên Tô Văn Trực cũng không khỏi ngoại lệ. Rong ruổi đến cạn mòn trên các nẻo đường ở đàng Ngoài, lúc bảo vệ ở biên giới phía Bắc lúc chiến đấu với quân ở đàng Trong. Thời Lê Trịnh lực lượng vũ trang chỉ có bốn binh chủng: Bộ binh, thủy binh, kỵ binh và pháo binh. Dù ở vị trí nào, thì người lính Tô Văn Trực đều hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà quân đội giao phó. Trong nhiều năm phục vụ quân ngũ với bao chiến công vang dội và tài thao lược chỉ huy, ông được triều đình nhà Lê Hiển Tông phong tới chức Tả quân Đô đốc Trung dực và sau đó cuộc đời ông trôi dạt về mảnh đất bên triền tả sông Tranh (từ 1890 là sông Hóa) thuộc xã Nội Tạ, tổng Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Ông được gia đình họ Nguyễn Nội Tạ nhận làm con nuôi và kết hôn với bà Nguyễn Thị Đại (chi phái nhà cụ Nguyễn Thắng Huy, thường gọi là cụ Lý Huy hay cụ Tiên Đội) vào thập niên 70 thế kỷ XVIII.

NGỌC TÔ 

(Còn nữa)