VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
THƠ VĂN BẠN BÈ
NGẪU BÚT VỀ NGUYÊN HỒNG
Thời gian trước, khi nhà văn Bùi Ngọc Tấn còn sống, mỗi khi xuống Hải Phòng thăm ông, câu chuyện trước sau gì cũng dẫn đến nhà văn Nguyên Hồng.NGẪU BÚT VỀ NGUYÊN HỒNG
Nhà văn Phùng Văn Khai
Thời gian trước, khi nhà văn Bùi Ngọc Tấn còn sống, mỗi khi xuống Hải Phòng thăm ông, câu chuyện trước sau gì cũng dẫn đến nhà văn Nguyên Hồng. Bùi Ngọc Tấn thường bảo: “Cụ Đốc Hồng thế mà đã ra đi hai chục năm rồi. Tám Bính vẫn còn nhởn nhơ ngoài chợ Sắt mà cụ Hồng chẳng thấy đâu. Ở thế giới bên kia, có lẽ cụ yên ổn hơn chăng mà chẳng thấy ngoái về một lần nào”. Rồi nhà văn Bùi Ngọc Tấn cũng mất.
Nhà văn Nguyên Hồng là một trường hợp đặc biệt. Ông sáng tác từ rất sớm, viết Bỉ vỏ khi mới 17 tuổi. Bỉ vỏ in lần đầu năm 1938 đã gây chấn động văn đàn. Tác giả của nó, chàng trai gầy nhỏ thư sinh Nguyên Hồng vẻ ngoài nhút nhát rụt rè lấy ở đâu ra mẫu nhân vật Tám Bính, Năm Sài Gòn - toàn những giang hồ cộm cán. Tiểu thuyết Bỉ vỏ khi đó cùng với Số đỏ của Vũ Trọng Phụng; Tắt đèn của Ngô Tất Tố; Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan… đã mau chóng trở thành những tác phẩm văn học hiện thực phê phán tạo dựng nên nền văn học buổi ban đầu. Cái tên Nguyên Hồng mau chóng quen thuộc với bạn đọc.
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn có lẽ là một trong những người hiểu Nguyên Hồng sâu sắc nhất. Hiểu không phải từ những trường văn trận bút oan khiên nếm trải mà chính là nỗi đời thăm thẳm mà giới văn bút thế hệ các ông đã phải tự vượt qua. Với Nguyên Hồng, bước ngoặt lớn nhất không ở chặng Bỉ vỏ khi cách mạng còn chưa thành công, con người nhà văn và con người công dân vẫn còn chưa rành mạch, mà phải đến khi sóng gió nổi lên đận ông phụ trách báo Văn các đồng chí của mình đã khiến ông phải uất ức thốt lên: “Ông đếch chơi với chúng mày nữa” và một mạch bỏ Hà Nội về Yên Thế - Bắc Giang, sống và viết đến hết đời.
Bùi Ngọc Tấn dường như còn bi ai hơn. Một số sáng tác của ông bị soi xét, nhắc nhở và đương nhiên - tác giả của nó - nhà văn Bùi Ngọc Tấn - một cây bút trẻ tài năng thời điểm bấy giờ bị tù không án 7 năm. Trước Bùi Ngọc Tấn, nhà thơ Phùng Cung - một tài hoa cùng thời với những Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, Trần Dần, Hoàng Cầm… cũng bảy, tám năm tập trung trong các trại cải tạo. Đã có một thời, chúng ta đã có những việc không đáng xảy ra như vậy. Sau này, trong các nguồn tài liệu đáng tin cậy của Đại tá công an - nhà văn Thái Kế Toại đã cho chúng ta thấy rõ những sự kiện, sự việc, kể cả các bản thảo của một thời.
Nhà văn Nguyên Hồng trong ký ức giới văn nghệ sĩ, nhất là cánh nhà văn trẻ luôn là vô số những câu chuyện sâu đậm, giai thoại văn chương. Nhà văn Lê Lựu luôn coi nhà văn Nguyên Hồng là một bậc thầy. Cái gì ông cũng kể tốt về thầy. Cái gì Lê Lựu cũng học theo thầy. Tôi chưa nhìn thấy Nguyên Hồng ăn bốc bao giờ nhưng Lê Lựu thì tôi đã nhìn thấy rất nhiều. Có lần tôi đã trách Lê Lựu: “Bác buồn cười nhỉ. Có đũa bát hẳn hoi trên bàn tại sao cứ phải ăn bốc? Người ta cười cho”. Ai cười chưa biết nhưng đã thấy răng sún ố vàng màu trầu thuốc tóc xoăn mắt nhắm tịt lại cười hềnh hệch: “Bố láo nào! Cậu thì biết cái gì! Ăn bún đậu mắm tôm mà không bốc còn gì là ngon”. Mọi người xung quanh Lê Lựu ai cũng che miệng cười. Có cô diễn viên đã suýt rú lên khi thấy Lê Lựu dùng tay nhón bún nhúng thẳng vào bát mắm tôm mặc ruồi bay tứ phía, có con rơi tõn vào vầng bọt bia đang sủi trắng phau.
Nhà văn Nguyên Hồng mất năm 1982. Khi ấy tôi mới 9 tuổi chưa được đọc chữ nào của ông nhưng cũng chẳng hề gì. Sau này tôi đọc bù, nhất là nghe bù các câu chuyện về nhà văn Nguyên Hồng. Hai người luôn kể về ông say mê tha thiết mọi lúc mọi nơi chính là Bùi Ngọc Tấn và Lê Lựu.
Những chuyện đời sống của Nguyên Hồng có thể người thích, người không; người biết rồi, người chưa biết; nhưng các tác phẩm của Nguyên Hồng có lẽ mọi người, giới văn bút, bạn đọc các thế hệ rất nhiều người hâm mộ: Đó là: Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938); Những ngày thơ ấu (hồi ký, đăng báo lần đầu năm 1938, xuất bản năm 1940); Bảy Hựu (truyện ngắn, 1941); Qua những màn tối (truyện, 1942); Cuộc sống (tiểu thuyết, 1942); Miếng bánh (truyện ngắn, 1945); Địa ngục và lò lửa (truyện ngắn, 1946-1961); Đất nước yêu dấu (ký, 1949); Dưới chân cầu Mây (tập truyện ngắn, 1951); Trời xanh (tập thơ, 1960); Cửa biển (bộ tiểu thuyết 4 tập: 1961, 1967, 1973, 1976); Bước đường viết văn (hồi kí, 1970); Khi đứa con ra đời (tiểu thuyết, 1976); Những nhân vật ấy đã sống với tôi (hồi ký, 1978);…
Từ các khu vực sáng tác của Nguyên Hồng, đã cho thấy tài năng và tâm huyết của ông với nhân dân và Tổ quốc, nhất là với những người ở dưới đáy, thợ thuyền, người lao động tay chân, thậm chí là lưu manh, đĩ điếm.
Luôn tự nhận mình là nhà văn của lớp người cùng khổ, Nguyên Hồng trong các sáng tác của ông trước cách mạng tháng Tám 1945 đã gióng lên một hồi chuông về sự tha hóa, biến chất mà xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẻ ra mà không chịu trách nhiệm. Tại sao trong xã hội lại có những người như Tám Binh, Năm Sài Gòn? Cũng như Vũ Trọng Phụng đặt ra câu hỏi xã hội tại sao luôn có Xuân Tóc Đỏ? Những câu hỏi của thời đại và không chỉ của thời đại ấy đã vang lên. Nó đã được trả lời bằng cả một cuộc cách mạng đã cho thấy tài năng dự báo của các nhà văn mà ở đây điển hình là Nguyên Hồng và Vũ Trọng Phụng. Tư tưởng của Bỉ vỏ và Số đỏ chính là việc lột tả chính xác bản chất của xã hội đương thời, đóng đinh nó vào văn học bằng tài năng của nhà văn. Đó chính là giá trị lớn nhất của mỗi tác phẩm văn học.
Nhà văn Nguyên Hồng, thời kỳ ông đã lui về Nhã Nam chính là thời kỳ sáng tác sung sức của ông. Bộ tiểu thuyết Cửa biển đã được Nguyên Hồng dốc sức viết trong khoảng thời gian ở đây. Nó chính là đứa con tinh thần mà Nguyên Hồng dành nhiều thời gian và sức lực nhất. Nó cũng chính là nơi thể hiện chiều sâu nội tâm của Nguyên Hồng. Sau này, giới văn bút, nhất là các nhà lý luận phê bình đã dường như đánh giá chưa hết về bộ tiểu thuyết Cửa biển của Nguyên Hồng.
Thời điểm đó, những năm sau giải phóng 1975, tiếp đó là dấu mốc Đổi mới 1986, nền văn học, các sáng tác văn học nghệ thuật của chúng ta đã có những chuyển động dữ dội mà một trong những học trò xuất sắc của Nguyên Hồng - nhà văn Lê Lựu đã cho ra đời tiểu thuyết Thời xa vắng được mệnh danh là phát súng lệnh của dấu mốc Đổi mới. Sau này, có một lần nhà văn Lê Lựu nói với tôi, ông viết Thời xa vắng chính là để tri ân cụ Đốc Hồng - nhà văn Nguyên Hồng.
Không phải ngẫu nhiên nhà văn Nguyên Hồng được gắn mác “cụ Đốc Hồng”. Đó là ông đã nhiều năm được giao phụ trách lớp đào tạo viết văn của Hội Nhà văn ở Quảng Bá - Hồ Tây. Lê Lựu chính là một học trò từ lớp học này. Từ đó, đi đâu, giới văn bút các thế hệ đều gọi nhà văn Nguyên Hồng là “cụ Đốc Hồng”.
Hội Nhà văn Việt Nam, ở trong các thời khắc lịch sử đều đã và đang đảm đương xuất sắc vai trò, vị trí, chức năng của mình. Làm lãnh đạo Hội Nhà văn, lãnh đạo các cơ quan của Hội thật không dễ dàng gì. Vậy mà một người như Nguyên Hồng lại từng làm lãnh đạo báo Văn ngay sau thời điểm bước ngoặt Nhân văn giai phẩm thì những sóng gió dội vào ông, khiến ông phải thốt ra câu: “Ông đếch chơi với chúng mày nữa” cũng là điều dễ hiểu. Với một con người như Nguyên Hồng, những va đập ấy có khi lại có ích với ông, sự cần thiết để trưởng thành hơn đối với một nền văn học. Sau này, nhà văn Tô Hoài trong Cát bụi chân ai đã viết rất sâu sắc và trào rộng về Nguyên Hồng thời kỳ phụ trách tờ báo Văn. Đó là thời kỳ mà giới văn nghệ sĩ, các sáng tác và hoạt động về văn học nghệ thuật đứng trước sự chuyển động dữ dội từ bên trong, những va đập, phân hóa mạnh mẽ cũng là sự cần thiết để người nghệ sĩ trưởng thành. Sau này, có nhiều người bàn về sự đúng sai có lẽ cũng là không cần thiết.
Nhà văn Nguyên Hồng còn được biết đến rộng rãi với bài thơ Cửu Long Giang ta ơi từng được đưa vào sách giáo khoa. Bài thơ mở đầu đã mang khẩu khí rất Nguyên Hồng: Ngày xưa ta đi học/ Mười tuổi thơ nghe gió thổi mùa thu/ Ngẩng mặt lên trông bản đồ rực rỡ/ Như đồng hoa bỗng gặp một đêm mơ. Thơ Nguyên Hồng luôn đồng nhất với văn ông, nhất là Những ngày thơ ấu. Khổ tiếp theo của Cửu Long Giang ta ơi vẫn là âm hưởng đó: Bản đồ mới tường vôi cũng mới/ Thầy giáo lớn sao, thước bảng cũng lớn sao/ Gậy thần tiên và cánh tay đạo sĩ/ Đưa ta đi sông núi tuyệt vời.
Ấy vậy mà, ở những khổ thơ sau, đã là Nguyên Hồng rất khác: Mê Kông chảy/ Cây lao đá đổ/ Ngẫm nghĩ voi đi/ Thác Khôn cười trắng xóa/ Nan hoang dứa mật thông nhựa lên hương/ Nhũng trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn/ Rừng Lào - Miên rộng quá/ Dân Lào - Miên mến yêu/ Xôi nếp nước trong sẵn sàng chia bạn đói… thì đã là sự chuyển động bên trong một cách tự nhiên của Nguyên Hồng. Sau này, trong các tác phẩm thơ của nhà văn Bùi Ngọc Tấn, âm hưởng thơ Nguyên Hồng luôn tràn vào rất rõ. Nhà văn Lê Lựu không thầy làm thơ nhưng suốt ngày ông khoe thơ của “cụ Đốc Hồng” còn đọc vanh vách Cửu Long Giang ta ơi một cách đầy hứng khởi.
Thơ Nguyên Hồng, ở một phía nào đó vừa giống Văn Cao vừa khác Văn Cao. Giống ở chỗ câu chữ giản dị tự nhiên mà sâu sắc. Khác ở chỗ Văn Cao luôn nén rất chặt còn Nguyên Hồng luôn bung xõa tới mênh mang.
Đối với mỗi nhà văn, được sống trong lòng bạn đọc và đồng nghiệp mới là điều quan trọng nhất. Nhà văn Nguyên Hồng đã sống trong lòng bạn đọc và đồng nghiệp một cách hết sức tự nhiên, bền chặt đến hôm nay đều là do tâm và tài của ông. Ở Nguyên Hồng, tâm và tài luôn liên thông và đồng nhất. Ông từng chịu tai ương văn bút cũng chính từ sự đồng nhất ấy.
Nhà văn Nguyên Hồng, với thế hệ chúng tôi luôn vừa thật gần vừa thật xa xôi. Chúng tôi luôn yêu quý và kính trọng Nguyên Hồng nhưng để học theo ông thật khó lắm thay. Điều đó không thể đổ cho đổi thay thời cuộc xã hội mỗi lúc khác nhau mà cái chính là chúng tôi không thể có được dũng khí của Nguyên Hồng. Dũng khí của ông không chỉ được hình thành, hun đúc từ những cơ cực lầm than vạn kiếp người thời ông sống, ông nếm trải mà còn là căn cốt và căn tính của một dân tộc linh hoạt, mềm dẻo đấy nhưng cũng hết sức quật cường, khí phách đấy. Nhà văn Nguyên Hồng, ở một phía nào đó, chính là đại diện cho nhân cách, lẽ sống của nhà văn.
Trong các lần trò chuyện với nhà văn Bùi Ngọc Tấn, nhà văn Lê Lựu, nhà văn Đào Bá Đoàn về Nguyên Hồng, tôi luôn có cảm giác nhà văn Nguyên Hồng đang có mặt, ngồi ngay bên cạnh chúng tôi. Chúng tôi đã vững tâm hơn khi có ông bên cạnh, nhất là văn chương của ông, các thế hệ độc giả của Nguyên Hồng khiến chúng tôi vững vàng ngòi bút của mình, học tập Nguyên Hồng gạt đi nỗi sợ mà viết ra những thứ mà nhân dân đòi hỏi, những thứ mà bản thân bức bối. Tôi đồ rằng, nhà văn Bùi Ngọc Tấn đã viết Một thời để mất; Chuyện kể năm 2000; Biến và chim bói cá… trong tâm thức ấy. Cũng như vậy, nhà văn Lê Lựu đã viết: Thời xa vắng; Sóng ở đáy sông; Chuyện làng Cuội; Hai nhà… cũng trong tâm thức ấy.
Nhà văn Nguyên Hồng, văn chương và số phận của ông, những nhân vật Tám Bính, Năm Sài Gòn đã rời trang sách của ông phiêu bạt khắp nơi sống đời sống của mình, người thân và bạn đọc của ông đến hôm nay đã cho thế hệ cầm bút sau ông những bài học về văn chương và đời sống vô cùng sâu sắc. Nhà văn Nguyên Hồng - “cụ Đốc Hồng” mãi mãi là người thầy với giới văn bút thế hệ sau ông trong đó có cá nhân tôi.
P.V.Kh
Các tin khác
-
Tình bạn. Truyện ngắn của Dương Đình Lộc
-
GIÁ CỦA SỰ THÁI QUÁ
-
Mùa than năm ấy. Truyện ngắn của Hoàng Kiến Bình
-
ĐI BẮT CUA ĐỒNG
-
NHỚ NHÀ VĂN HỌC PHI
-
KỈ NIỆM VỚI ĐẶNG XUÂN XUYẾN
-
Dấu xưa Am Các… Bút ký của Phạm Thanh Thúy
-
Thủ lĩnh của căn cứ Hai Sông
-
Ai mua mật ong không?
-
CẦN KỈ NIỆM ĐÚNG TẦM, NHÂN VĂN VÀ KHOAN DUNG