/Rượu suông đắng nỗi nhớ nhà. Ta ngồi uống với mình ta hững hờ/ Thơ QUANG HUY

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

Những bài khác

Nhà thơ Trịnh Công Lộc với “Ba đoạn đời mình…”

Nhà thơ Trịnh Công Lộc ngẫm “Ba đoạn đời mình…”: “Sinh ở Thái Bình, làm ở Quảng Ninh, hưu về Hà Nội”.

Nhà thơ Trịnh Công Lộc với “Ba đoạn đời mình…”

 

        Nhà thơ Trịnh Công Lộc ngẫm “Ba đoạn đời mình…”: “Sinh ở Thái Bình, làm ở Quảng Ninh, hưu về Hà Nội”.

       Hai năm trước, hay tin ông gặp bệnh khi chớm tuổi 71, khiến tôi bồn chồn. Nói chuyện điện thoại giọng ông chậm đi. Biết ông luôn tự chủ và điều độ, nên tôi tin ông sớm hồi phục. Và may, ông khỏe trở lại, tinh thần cùng hoạt động sáng tác của ông vẫn nhanh nhạy, trách nhiệm. Khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần, ông đã chia sẻ với tôi bài thơ “Nén tâm nhang tiễn biệt” cùng cả đường dẫn bài thơ được đăng trên báo điện tử.

Nhà thơ Trịnh Công Lộc

     “Hưu về Hà Nội” nhưng ông luôn đau đáu với Vùng mỏ, thường chủ động liên lạc tới tôi “Quảng Ninh ta có gì mới không?”

Biết tôi về Quảng Ninh công tác, nhà thơ Trần Hòa Bình giới thiệu về ông, với hy vọng giúp tôi đỡ cảnh bơ vơ những ngày đầu nơi ở mới.

Vất vả ngày đường ra được Hòn Gai, một nữ cán bộ Sở Giáo dục cho tôi biết “Trịnh Công Lộc ở tít huyện Đông Triều, cuối tỉnh…” Đến mấy năm sau tôi mới có cơ hội diện kiến ông. Lần đầu tiên tôi gặp ông tại căn nhà làm việc của Phòng Văn thể huyện mà ông là quyền trưởng phòng, bên một bể bơi, cạnh Quốc lộ 18. Gương mặt sáng, vóc dáng thư thái, ông nói chuyện như đã thân tôi từ lâu. Sau lần gặp ấy, mỗi khi qua thị trấn Đông Triều tôi đều nhìn bể bơi và căn nhà…

     Khi ông chuyển lên Hồng Gai làm công tác tuyên giáo thì hai cơ quan chúng tôi Tỉnh ủy và Báo Quảng Ninh cạnh nhau. Cách khoảng dăm ngày, lúc cuối giờ làm việc, có khi buổi sáng, có khi buổi chiều, ông và tôi gặp nhau trò chuyện. Nói là trò chuyện nhưng ông lắng nghe tôi nói là chính, với đủ thứ chuyện, còn ông chỉ bàn về thơ và liên quan tới thơ.

Làm công tác tuyên giáo tới chức Phó Trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, ông “va” rất nhiều vụ việc liên quan trực tiếp đến vấn đề sáng tác và đội ngũ văn nghệ sĩ. Tôi thấy ông lúc nào cũng “căng ra” trước những vấn đề nổi cộm, dư luận ồn ào. Thơ mà viết “Có con cóc cụ lên ngồi bát nhang” là nói xấu lãnh đạo? Một truyện ngắn đặt tên nhân vật chính (X) trùng lên với một lãnh đạo tỉnh, lại nghênh cái tít “X ơi về thôi” là có hàm ý gì đây? Một bức hình vẽ chân dung lãnh tụ hai mảng sáng tối là vẽ “người hai mặt”?…

Rồi chính tôi và ông cũng có chuyện. Ông chuyển tôi bài thơ để in Báo Quảng Ninh số Tết. Trước khi in, bộ phận nhà in kịp phát hiện ra “chuyện lớn”. Câu thơ về vịnh Hạ Long “Ta đứng đảo vây quanh/ Ta đi đảo nghiêng ngó” chẳng hiểu sao chế bản “đảo” thành “đảng”! Ông cẩn trọng và tôi cũng thế, nhưng thực tế có những sơ suất không ngờ tới. Cả ông và tôi đều hiểu trong nghề chữ, những bất cẩn nếu không xử lý khéo ngay từ đầu sẽ bị lợi dụng, suy diễn, thổi phồng.

Tác phong thận trọng vô tình lại tạo cho ông vẻ “quan trọng” đối với không ít người. Ngay tôi cũng nhiều lần vui vui: “Anh sang nói chuyện thơ hay để nắm tình hình đây?”. “Chú cứ đùa anh” – ông nhẹ nhàng ngồi xuống ghế và cười rất hiền. Hơn ai hết, ông rõ điều này, nên dù yêu thơ, ôm ấp thơ đến đâu, ông vẫn dè dặt trao đổi, công bố sáng tác của mình.

Ngay trong “Thơ Quảng Ninh 1969  1989”, tuyển tập thơ của các tác giả hội viên Hội Văn nghệ tỉnh, đến tôi cũng được giới thiệu trong đó, nhưng ông lại không. Giờ hỏi lại, nhà thơ Trần Nhuận Minh, một thành viên nhóm tuyển, cũng không hiểu vì sao, chỉ có thể là do tác giả không gửi. Rồi cả tập sách Tư liệu về hội viên, nhân 35 năm thành lập Hội Văn nghệ tỉnh, ông cũng chỉ vẻn vẹn cái tên tại danh sách chung in cuối sách, trong khi mỗi hội viên có hẳn một trang in ảnh và lý lịch sáng tác. Kỷ niệm 60 năm thành lập tỉnh, Quảng Ninh có tổ chức cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật, ông đã chuẩn bị các tác phẩm, nhưng cuối cùng trao đổi với tôi “mình quyết định không dự thi nữa”. Ông chuyển tôi tin nhắn đã gửi cho Chủ tịch Hội Văn nghệ Đào Huy Toàn, vốn là học trò Cao đẳng sư phạm của ông: “Toàn ơi, mình đã chuẩn bị đầy đủ Hồ sơ gửi tác phẩm về Hội để dự thi rồi. Nhưng mình quyết định không gửi dự thi nữa vì mấy lẽ: Mình không ở Quảng Ninh nữa. Hiện mình đang trong bạo bệnh, biết đâu có người họ nghĩ mình cố đấm ăn xôi… Quảng Ninh còn nhiều anh, chị, em có quá trình sáng tác, có tác phẩm hay mà chưa được tôn vinh xứng đáng. Còn mình đã được trao giải cao cuộc thi toàn quốc và giải Hội Nhà văn rồi. Giải thưởng và tiền ai mà không quý. Nhưng trên tất cả là tình yêu và cuộc sống. Rất cám ơn sự quan tâm của Toàn. Thầy mong em gặp nhiều may mắn”.

Ông chủ động “đứng xa” để không bị cuốn vào những thói thường, dành sức làm tốt phận sự công việc, cũng như chăm chút cho nàng thơ.

Sự lựa chọn “làm ở Quảng Ninh” của Trịnh Công Lộc cũng lạ. Nơi ông đến không bởi vì có người yêu hay người họ hàng, mà chỉ do… từng thực tập sư phạm. Dịp thực tập đó ông sáng tác nhiều thơ và bài thơ viết về Hà Tu được đăng ngay báo Văn Nghệ. Có thể chính tình cảm ấy đã đã vẫy gọi ông về Quảng Ninh, về với non thiêng Yên Tử, dòng sông lịch sử Bạch Đằng cùng kỳ quan vịnh Hạ Long…

Từ phải: Tác giả bài viết cùng các nhà thơ Trịnh Công Lộc, Thi Hoàng, Kim Chuông, Tô Ngọc Thạch tại bờ biển Vân Đồn.

Ông dạy học tuy chỉ ít năm nhưng để lại dấu ấn được trân trọng. Năm 1977, khi thầy giáo sau 3 năm ra trường Trịnh Công Lộc tham gia bồi dưỡng đội tuyển môn văn, Quảng Ninh lần đầu tiên có được một giải học sinh giỏi quốc gia. PGS.TS Vũ Thanh (Viện Văn học) là học sinh xuất sắc đó, và khi trao đổi với tôi, ông nói “vẫn nhớ những tiết giảng hay của thầy Lộc”.

Quãng thời gian cỡ một “khóa” trước khi nghỉ hưu, Trịnh Công Lộc được bổ chức Trưởng Ban Quản lí các di tích trọng điểm tỉnh. Chúng tôi đùa vui gọi ông là “Trưởng ban quản lý PU18” với hàm ý nhà thơ mà cầm tiền thì hãy cẩn thận (PU18 một thời là đơn vị quản lý dự án của Bộ Giao thông – Vận tải đã để xảy ra nhiều sai phạm, gây tai tiếng cả nước). Cá nhân tôi mong ông với cương vị mới xử lý được sai phạm… thơ ở Yên Tử. Trên các bia đá ở khắp di tích Yên Tử, cuối phần nội dung chỉ dẫn đều khắc thơ “thần” Hoàng Quang Thuận, trích từ tập “Thi vân Yên Tử”. Đơn cử, bia “Chùa Một Mái” có nội dung: “Xưa, chùa có tên là: Am Ly Trần, Động Thanh Long, Chùa Bồ Đà, Bản Thiên Tự. Nơi đây, vua Trần Nhân Tông thường đọc sách, soạn kinh”. Sau nội dung này lại kèm phần thơ của Hoàng Quang Thuận: “Một mái chùa xưa giữa trần ai/ Chênh vênh lưng núi nửa trong ngoài/ Hoa bưởi trước chùa đơm trắng xóa/ Bạch vân triền núi một cành mai (Thi Vân Yên Tử)”. Kể cả hòn đá qua suối Giải Oan cũng dùng sơn vàng vẽ lá bồ đề và viết lên đó thơ “thần”.

Dư luận từng “nóng” lên án tập thơ “Thi vân Yên Tử” của Hoàng Quan Thuận là bịa đặt thơ “nhập đồng” và cho là “đạo văn” từ cuốn sách của ông Trần Trương. Đến nay các bia đá kèm thơ “Thi vân Yên Tử” vẫn nguyên xi và vấn đề Hoàng Quang Thuận có đạo văn hay không cũng chìm đi.

Tôi có cơ hội cùng các nhà thơ Thi Hoàng, Kim Chuông, Tô Ngọc Thạch được ông thu xếp trải nghiệm các di tích lịch sử, danh thắng của Quảng Ninh. Ông cũng trân trọng lắng nghe ý kiến của chúng tôi về giải pháp bảo tồn, phát huy các di tích. Nói về việc bia đá kèm thơ ở Yên Tử, Trịnh Công Lộc bảo “đau”. “Vị này (tức Hoàng Quang Thuận) quen với nhiều lãnh đạo, mà việc đã diễn ra từ lâu, không dễ xử lý dứt điểm”. Ông từng tranh luận với một lãnh đạo tỉnh, là di tích quốc gia đặc biệt thì không thể ai cũng viết vẽ, thời trước nhà vua mới có quyền làm thế.

Ông có công làm được hai việc lớn cho tỉnh Quảng Ninh, cũng là hai việc ông tâm đắc nhất khi “làm ở Quảng Ninh”. Việc lớn thứ nhất, xác định dấu tích am Ngọa Vân, nơi Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông tu hành và hóa Phật cùng đề xuất làm con đường hành hương như vốn có từ di tích Yên Tử (Uông Bí) tới di tích Ngoạ Vân (Đông Triều). Việc lớn thứ hai, lập quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy các khu di tích quốc gia đặc biệt Yên Tử, Bạch Đằng, Nhà Trần ở Đông Triều và đều được Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt. Ông kể, khi khởi công làm con đường tâm linh Yên Tử tới Ngọa Vân, có lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh đã gọi điện thông báo cho ông. Nhiều người dân và khu khách vui mừng bảo đây là con đường “Lộc”.

Từng ý tưởng cùng trải nghiệm công việc đã khởi trong ông tứ thơ. Bài thơ “Dấu tích Ngọa Vân” của ông tiêu biểu cho những sáng tác được hình thành theo cách đó.

Thời sinh viên Trịnh Công Lộc làm Chủ nhiệm CLB thơ Khoa ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội 1. Mới đây ông chia sẻ cho tôi bức ảnh CLB thơ năm 1973 mà ca sĩ Quỳnh Liên (vợ Trần Hòa Bình) gửi ông. Xem ảnh ông nhận ra mình “chắp tay” đứng bên thầy Nguyễn Văn Hạnh, Phó Chủ nhiệm Khoa, cùng các bạn Trần Hòa Bình, Vũ Bình Lục, Bùi Mạnh Nhị, Vũ Quốc Long…

Bài thơ đầu tiên của Trịnh Công Lộc mà tôi biết là “Trở lại chiến khu xưa”, in trong “Thơ 1951-1986” của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1. Tập thơ do Trần Hòa Bình được giao sưu tầm, tuyển chọn, nên tôi tiếp xúc từ bản thảo. Qua tập thơ nhận ra nhiều tác giả tên tuổi trên văn đàn trưởng thành từ “lò” sư phạm này: Nguyễn Đình Ảnh, Triều Ân, Nguyễn Chí Bền, Trần Hòa Bình, Lê Đình Cánh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Quang Đạo, Trịnh Hoài Giang, Thúc Hà, Nguyễn Trọng Hoàn, Hoài Khánh, Vũ Khánh, Trịnh Công Lộc, Vũ Bình Lục, Đỗ Bạch Mai, Lê Khánh Mai, Nguyễn Thị Mai, Bùi Công Minh, Vũ Đình Minh, Phạm Ngà, Thái Thu Nguyên, Bùi Mạnh Nhị, Thái Sắc, Thạch Quỳ, Bùi Quang Thanh, Châu Hồng Thủy, Trần Quốc Toàn, Đinh Quang Tốn, Hoàng Minh Tường, Thanh Ứng, Nghiêm Đa Văn, Vũ Đình Văn, Nguyễn Thái Vận, Nguyễn Bùi Vợi, Nguyễn Đăng Vũ…

Có thơ in trên báo Văn Nghệ, Văn nghệ Quân đội từ thời sinh viên, nhưng mãi đến năm 2011, trước khi nghỉ hưu một năm, Trịnh Công Lộc mới công bố tập thơ đầu tay “Cánh buồm nâu”. Ngay sau đó ông ra tiếp các tập thơ “Mộ gió” (năm 2012); “Mặt trời đêm” (năm 2014), “Tim núi” (năm 2019). Năm 2020 ông tuyển chọn ba tập thơ đầu thành tập “Từ biển mà đi”. Cuối năm 2023 ông gửi tôi ảnh tươi tắn dự Hội nghị đại biểu Nhà văn lão thành Việt Nam tại Đồ Sơn và nhắn tin “sẽ tập hợp, xuất bản tập thơ nữa”. Tôi hình dung việc chuẩn bị cho tập thơ cũng khá vất cho ông, bởi đâu khỏe như trước, vậy mà nói là làm ngay được. Mùa thu 2024, tập thơ “Mặt trời cỏ” của ông đã ra mắt. Bởi tôi có hỏi, nên ông bảo sau “Mặt trời cỏ” cũng chưa thể nói trước sẽ ra tập nữa. Mừng cho ông lại tự thấy mình kém, chưa xả thân với thơ được như ông.

Biển – non sông, đất nước, núi – dân tộc, Tổ quốc và mặt trời – lý tưởng thiêng liêng, thông điệp từ tên các tập thơ cũng là không gian thơ của Trịnh Công Lộc.

Nếu để chọn một bài thơ tiêu biểu của ông, có lẽ mọi người cũng như chính tác giả sẽ nghĩ ngay tới “Mộ gió”. Bài thơ viết giữa năm 2011, thì đầu năm 2012 cả bài thơ “Mộ gió” và ca khúc phổ nhạc bài thơ (Khúc tráng ca biển (Mộ gió) – âm nhạc Vũ Thiết) đều được trao giải nhì cuộc thi thơ và nhạc toàn quốc chủ đề “Đây biển Việt Nam” do Báo Vietnamnet phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức.

Ca khúc phổ nhạc bài thơ “Mộ gió” của Trịnh Công Lộc đã mang lại Giải thưởng Nhà nước cho nhạc sĩ Vũ Thiêt (năm 2017) và nhạc sĩ Đỗ Hòa An (năm 2022).

Không chỉ “Mộ gió”, Trịnh Công Lộc còn có nhiều bài thơ được các nhạc sĩ phổ nhạc: “Dấu tích Ngọa Vân” (nhạc sĩ Thế Phùng), “Cao Xiêm” (nhạc sĩ Thế Phùng), “Dấu chân Sa Vĩ” (nhạc sĩ Thế Song và nhạc sĩ Vân Dung), “Thành phố – núi Bài thơ” (nhạc sĩ Vũ Thiết)…

MỘ GIÓ… (*)

Mộ gió đây,

đất thành xương cốt

cứ gọi lên là rõ hình hài

mộ gió đây,

cát vun thành da thịt

mịn màng đi,

dìu dặt bên trời… 

Mộ gió đây,

những phút giây biển lặng

gió là tay ôm ấp bến bờ xa

chạm vào gió như chạm vào da thịt

chạm vào

nhói buốt

Hoàng Sa… 

Mộ gió đấy

giăng từng hàng, từng lớp

Vẫn hùng binh giữa biển – đảo xa khơi

Là mộ gió

gió thổi hoài, thổi mãi

Thổi bùng lên

Những ngọn sóng

ngang trời!

Bài thơ “Mộ gió” đã được nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá cao, khi phát biểu tại lễ trao giải cuộc thi thơ, nhạc chủ đề “Đây biển Việt Nam”: “Cuộc thi cũng tìm ra nhưng gương mặt mới, rất xuất sắc, như Trịnh Công Lộc là một phát hiện bất ngờ, với bài thơ “Mộ gió” ẩn chứa sự đau đớn, cảm phục và tôn vinh một cách toàn bích hình ảnh sự hy sinh anh dũng của người chiến sĩ nơi đầu sóng ngọn gió. Cảm xúc rất mạnh, dâng lên, dâng lên cao trào. Cấu trục chặt, không rườm rà, tứ thơ cứ được đẩy lên đến vô tận. Không có chỗ cho “phô”. Tác phẩm dự thi của Trịnh Công Lộc thực sự là một bài thơ có tầm, hướng về giá trị lớn. Đó chính là sức mạnh toàn dân tộc. Mới mẻ về nhận thức, sâu sắc về tư tưởng, nó xóa đi mọi sự nghi kị, hẹp hòi, chỉ còn lại là một mối đồng cảm lớn lao: Bảo vệ Tổ quốc bằng tổng lực sức mạnh của dân tộc”.

Tên bài thơ “Mộ gió” cũng là tên tập thơ, cùng tập thơ “Từ biển mà đi” và bản thảo tập thơ “Thơ viết ở biển” của Trịnh Công Lộc đã được trao đồng giải nhất – Giải thưởng Sáng tác về biên giới, biển đảo của Hội Nhà văn Việt Nam, giai đoạn từ năm 1975 đến thời điểm xét giải (năm 2020). Cùng giải nhất này còn có tiểu thuyết “Đảo chìm Trường Sa” (Trần Đăng Khoa), tiểu thuyết “Mình và họ” (Nguyễn Bình Phương) và trường ca “Ba phần tư trái đất” (Thi Hoàng).

Nhà thơ Trịnh Công Lộc (thứ ba, từ phải) cùng các tác giả giành giải Nhất, Giải thưởng Sáng tác về biên giới, biển đảo của Hội Nhà văn Việt Nam.

Có lẽ vì thành công của “Mộ gió” cùng các bài thơ về biển đảo mà phần lớn các bài viết về thơ Trịnh Công Lộc mới chỉ tập trung vào tâm thức biển: “Trịnh Công Lộc và “Hội chứng Mộ gió”” (Đặng Huy Giang); “Mộ gió – Mộ thiêng bất tử” (Hồ Thế Hà), “Âm vang biển đảo qua cách nhìn của Trịnh Công Lộc” (Inrasara)…

Cùng với tâm thức biển – “Từ biển mà đi” là tâm thức núi – “Tim núi”, cặp “cánh thơ” Trịnh Công Lộc.

Biển có “Mộ gió” thì núi có “Đài hương”:

“Đài hương

lưng chừng núi

Các anh về cả đây

Trong đá và trong cát

Mặc, mưa nắng đong đầy

Khói nhang người đến thắp

Vị Xuyên tím ngắt mây

Tim núi giấc mơ bay

(Đài hương)

Biển có “Mộ gió” thì núi có “Vành tang núi”:

“Thanh Thủy “Lò vôi thế kỷ””

Vôi – Vành tang núi

Trắng trời”

(Vành tang núi)

Biển có “Mộ gió” thì núi có “bàn thờ Tổ quốc”:

“Mỗi đỉnh núi,

một bàn thờ Tổ quốc

Ngát linh hương nghi ngút trời mây!”

(Đỉnh núi)

     Ký ức về Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc năm 1979 đã nhỏ lệ thơ ông. Trong thơ Trịnh Công Lộc, biển trời sông núi tột cùng bi thương, tột cùng hùng vĩ và thiêng liêng. Khi biết tôi viết bài về Trịnh Công Lộc, ông bạn Nguyễn Tham Thiện Kế trầm ngâm: Thơ ông ấy hay, hiện đại, gợi “chất thơ” Trần Mai Ninh, Hữu Loan, và có tầm lớn, bởi ông đau cái đau chung của dân tộc quyện cái đau riêng mình, đặc biệt là những bài thơ viết về biển đảo.

Là người sáng tác văn học, lại từng có kinh nghiệm làm công tác tuyên giáo, nên sau khi nghỉ hưu, Trịnh Công Lộc được mời làm việc tại cơ quan Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương. Chính ở môi trường công việc tưởng chừng giáo điều này lại sinh hương cho ngòi bút của ông.

Bài thơ “Mộ gió” ông viết năm 2011, còn các bài thơ “Đài hương”“Vành tang núi”, “Đỉnh núi” đều được ông viết thời “hưu về Hà Nội”.

Với nỗi đau thật với nhân dân, Tổ quốc đã tạo nên bản sắc thơ ông. Khi ông xuất bản tập thơ “Mặt trời đêm” liệu có ý “đối lại” “Đêm giữa ban ngày” (Vũ Thư Hiên)? Tôi có hỏi, và ông trả lời “cũng có ý đó”.

Bài thơ “Điểm tựa” của ông viết năm 2015, với đề từ “Nhân kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9”, hẳn nối tiếp bài thơ “Điểm tựa” của ông Lê Đức Thọ viết năm 1982, khi thăm chốt chiến đấu tại biên giới phía Bắc.

“Và còn đây 

cuộc chiến thời bình

Cuộc chiến hồi sinh

Mong qua mau

Những oan khuất, thương đau

Sớm liền da thịt

Sao mau hết

Nạt dưới, dối trên

Lẫn lộn trắng, đen

Tranh công, đổ tội

Biến không thành có

Biến có thành không

Bão đất, bão tiền trắng đồng, trắng chợ

Nợ công đổ xuống vai gầy…

Có công, trả công

Có tội, chịu tội

Phải – trái phân minh

Lấy lại những gì đã mất

Thắng ta,

khó hơn thắng giặc!

Xin hãy,

siêng năng tắm gội

Sạch sẽ công quyền

Đừng để mất niềm tin”

(Điểm tựa)

Trịnh Công Lộc nhất quán con đường thơ cách mạng, trữ tình công dân và đã đạt thành tựu. Nhắc đến Trịnh Công Lộc người ta nghĩ đến các bài thơ “Mộ gió”, “Đài hương”, “Vành tang núi”, “Điểm tựa”, nhớ đến câu thơ “Mỗi ngọn núi một bàn thờ Tổ quốc”. Người làm thơ được như thế cũng là quý lắm.

Cuối năm 2022, qua zalo ông gửi tôi bản chụp chép tay bài thơ “Lại về với cỏ”, dưới tít còn mở ngoặc “hay bài thơ đang viết cho mình?”. Trong thăm thẳm ấy, con chữ mực xanh của ông đậm trên trang giấy: “Còn mình, khi mệnh đến/ Lại về với cỏ thôi/ Tựa lưng mền đất cỏ/ Mơ tít tắp chân trời” (Lại về với cỏ). Có thể bài thơ đã gợi cho ông lấy tên tập thơ “Mặt trời cỏ”, tác phẩm có nhiều bài về chiêm nghiệm cuộc sống, về tình người thân, bạn bè Sinh ở Thái Bình”: “Cậu tiễn đưa cháu”, “Bóng lá bóng cây” (Ngày tiễn đưa anh Hồ Quang Diệu), “Hương vườn” (nhớ Long), “Tháng bảy” (Nhân ngày thương binh, liệt sĩ), “Cây nghĩa trang”…

Nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất của nhà thơ Trần Hòa Bình, người bạn trẻ nhất CLB thơ sinh viên, ông viết:

“Thôi đành vậy người đi mây trắng

Thành ban mai tinh khiết chốn Bồng Lai

Mỗi câu thơ, một lẽ đời để lại

Bình về, thêm mát cho sông”

(Thêm mát cho sông)

“Người đi mây trắng” là thơ tôi viết về Trân Hòa Bình và “Thành ban mai tinh khiết” là thơ Trần Hòa Bình. Ông đã chú rõ như thế khi bài thơ “Thêm mát cho sông” đăng trên tạp chí Gia Đình, nơi Trần Hòa Bình từng là Phó Tổng biên tập kiêm nhiệm.

Trong chuỗi những bài thơ tiễn biệt ấy, tác giả “Mộ gió” lặng lẽ trước “Mộ đất” ở quê nhà: “Gió, kim khâu/ vá lành áo cỏ/ Đắp lên mộ đất này”. Cũng tại quê nhà ông thấy quý giá của sự “Thanh thản”: “Thanh thản được mỗi ngày/ Báu vật/ Hơn mọi thứ trong đời”. Trong lắng sâu này, ông viết về “Người ở rừng”: “Nói một câu thật một đời”. Ông nhận ra và báo động sự “Bất thường”: “Bạn hỏi: Anh nghĩ sao vụ xô xát đông người đến thế/ Tôi đáp: Cũng bình thường/ Sự bình thường gần chảo lửa/ Tôi chẳng biết nói gì hơn nữa/ Vì quá nhiều im lặng đổ vào tôi”.

Trịnh Công Lộc có cho mình triết lý “Nho nhỏ thôi”: “Chầm chậm đến – bớt ồn ào, inh ỏi/ Nho nhỏ thôi, để dễ đi, dễ nói/ Để mọi người dễ nhớ, dễ gần nhau!”. Thơ ông luôn có dòng chảy triết lý này. Câu chữ như dồn nung nấu lặng lẽ tiết ra rất nhẹ, rất nhỏ, rồi kết đọng hình tượng theo nhịp điệu của cảm xúc. Đây có thể coi là nét riêng ngôn ngữ thơ ông.

Trịnh Công Lộc cùng thuyền thơ giong buồm đón gió ra biển, cùng ngựa thơ đập móng hí vang lên núi, cùng chim thơ sải cánh cất tiếng hót hướng tới mặt trời. Trong hành trình ấy, Trịnh Công Lộc tự biết đường đi, đích đến của mình: “Vẫn biết mình nho nhỏ/ Cứ thế này chầm chậm về sau…”. Và ông đã đạt chí nguyện, chỉ 10 năm, tính từ tập thơ đầu tay, thơ ông được trao giải thưởng cao nhất của Hội Nhà văn, cùng nhiều giải thưởng của Hội Nhà văn phối hợp với các ngành, cơ quan.

Để kết thúc bài viết nhà thơ Trịnh Công Lộc, tôi xin dẫn khổ thơ đầu tiên trong tập thơ đầu tay “Cánh buồm nâu” và khổ cuối cùng trong tập thơ mới nhất “Mặt trời cỏ” của ông:

– “Đã hiện ra những cánh buồm nâu

Không gian giăng tơ lấp loáng

Chim gáy mùa thu bay buổi sáng

Sông xanh đậm buổi chiều”

(Cánh buồm nâu, Thu 1973)

– “Thẳng lưng bên bờ tre mọc

Xanh xanh giăng khắp làng quê

Ai đi lạc miền xa lắc

Tre xanh sẽ gọi ngày về”

(Tre làng, 18/4/2023)

TRƯƠNG THIẾU HUYỀN

—————————————————————–

(*) Mộ gió: Mộ tượng trưng theo nghi lễ chiêu hồn những chiến binh thời Nguyễn đi bảo vệ chủ quyền biển, đảo, không trở về.