/Rượu suông đắng nỗi nhớ nhà. Ta ngồi uống với mình ta hững hờ/ Thơ QUANG HUY

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

văn xuôi

BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 11) THƯƠNG THƯƠNG, NÀNG LÀ AI? – Phanxipăng

Đến năm 1994, người lụa bến sông Hương sang Pháp an dưỡng tuổi già và thỉnh thoảng về Việt Nam thăm thân quyến.

BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 11) THƯƠNG THƯƠNG, NÀNG LÀ AI? – Phanxipăng

 
TRÍCH ĐOẠN:
 
Theo tư liệu gia đình, Trần Thị Thương Thương chào đời ngày 8-10-1924 nhằm mùng 10 tháng 9 Giáp Tý (1). Nàng là con thứ 7 của tham tá Trần Thanh Đạt (1891 – 1968), tức Trần Công Toại, hiệu Nhược Thủy, tự Lương Khanh. Mẹ của Thương Thương là Đặng Thị Huề (1894 – 1965).
Là anh ruột cùng cha khác mẹ của hai nhà văn Trần Thanh Mại và Trần Thanh Địch, ông Trần Thanh Đạt từ tháng 2-1940 làm Tuần vũ tỉnh Bình Thuận, đến tháng 3-1949 về lại Huế nhậm chức Đệ nhị Tao đàn Hành lễ Đại sứ và tiếp đó kiêm nhiệm Thượng thư Bộ Học.
           
Như vậy, năm Kỷ Mão 1939, lúc bắt đầu liên hệ thư tín với Hàn Mạc Tử thì Thương Thương đã 15 tuổi tây, 16 tuổi ta và học lớp đệ nhất niên (1ère année) ban Thành chung (Enseignement primaire supérieur) trường Đồng Khánh ở Huế. Thời điểm nọ, ông Trần Thanh Đạt làm Tham tri Bộ Học.
 
Nhà văn Trần Thanh Địch tâm sự cùng tôi:          
 – Rất nhiều sách báo viết sai mà chưa ai cải chính. Tuổi của Thương Thương là một điểm sai. Hoàn cảnh và điều kiện xảy ra câu chuyện, thiên hạ cũng viết sai nốt. Thực tế lúc ấy, cuối năm 1939, Thương Thương nói với tôi: “Khi mô chú gởi thư cho anh Trí, nói giùm em có lời thăm, chú hí.” Cách xưng hô thân mật trong gia đình tôi vậy đó, gọi chú, xưng em, chứ không xưng cháu. Tôi bảo: “Rứa thì em viết thư thẳng cho Trí, rồi bỏ chung vô bì thư chú, có tốt hơn không? Viết thăm bình thường thôi mà. Nếu nói thêm đôi cảm nghĩ về một bài thơ nào nữa, càng hay.” Xin nhớ rằng thư và thơ Hàn gửi tôi, Thương Thương cùng mọi người trong nhà đều đọc ké chơi, và ai nấy đều rất thích thơ Hàn, nhất là Trần Tái Phùng – anh cả của Thương Thương. Thư gửi đi, chỉ sau một tuần đã thấy trong lá thư Hàn trả lời tôi có kèm mảnh giấy trả lời Thương Thương đề ngày 23-1-1940: “Thương Thương, cái tên thi vị quá chừng. Thương Thương là một bài thơ, hơn nữa, một nguồn thơ bất tuyệt. Những hàng chữ đơn sơ của em cũng rung cảm được tâm hồn anh. (…) Ở lòng anh có Thương Thương, nghĩa là có thơ, có nguồn thơ vĩnh viễn đấy.”
Từ đó, Hàn tập trung làm thơ, viết kịch về cháu gái của tôi, tích góp thành tập Thương Thương, sau đổi là Cẩm châu duyên. Nhớ một bức thư đề ngày 11-3-1940, Hàn còn bạo dạn viết cho Thương Thương: “Từ nay, hình ảnh em sẽ đến với anh mãi trong trí tưởng. Em sẽ là Nàng Thơ của anh. Cứ nghĩ đến em, thế là vui sướng lắm rồi, quên hết cuộc đời tân khổ, gian lao. Mà sau này, văn thơ anh ảnh hưởng ở em, nếu có chút giá trị gì đối với văn học, cái công của em không phải là nhỏ.” Quả thật, cơ duyên đưa đẩy hoàn toàn tự nhiên, ngẫu nhiên, chứ chẳng phải do tôi “đạo diễn” để “cứu bạn” như thiên hạ suy diễn. Mặc dù tôi rất thân, rất quý Hàn, nhưng cái gì mình không có thì nhận sao được?
          
 – Người ngoài cuộc bị nhầm lẫn, đã đành. Vậy cớ gì ông Trần Thanh Mại, người ngay trong gia đình, lại nêu lắm chi tiết thiếu chính xác?
           
Nghe tôi thắc mắc, Trần Thanh Địch cười:          
– Tất nhiên anh Mại biết rõ, nhưng chính vì người trong gia đình nên anh ấy phải viết lệch một số điểm. Chuyện này hơi tế nhị. Phanxipăng đã hỏi thì tôi không thể lờ đi. Số là hồi đó ở Huế, nhất là trong các trường trung học như Khải Định (2), Đồng Khánh (3), Việt Anh, Thuận Hóa, Hồ Đắc Hàm, Pellerin (4), Providence (5), rộ lên phong trào chép thơ rồi chuyền tay nhau. Nào thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Nam Trân. Nào thơ Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương, Hàn Mạc Tử, v.v. Đều là những bài thơ đã đăng báo, in sách. Thế mà, thật ngạc nhiên, chẳng hiểu sao bản thảo tập Duyên kỳ ngộ của Hàn gửi cho tôi, chưa đầy một tháng sau thì nam nữ học sinh ở Huế đã chép đủ. Tập này, tôi chỉ đưa Trần Tái Phùng đánh máy 3 bản. Một bản, Phùng giữ. Một bản, tôi giữ. Bản còn lại, anh đốc Thúy giữ.
           
Đốc Thúy tức nhà giáo Nguyễn Đình Thúy (1906 – 1944), bấy giờ dạy toán tại trường Khải Định, là chồng của Trần Thị Hồng Cẩm (1910 – 1974), chị cả của Trần Thị Thương Thương.
 
Cũng nên thêm rằng năm Ất Dậu 1945, Trần Thị Thương Thương kết hôn với Phạm Quỵ  – một luật sư gốc Hà Tĩnh. Hai vợ chồng sống hạnh phúc, sinh 5 con, gồm 4 gái và 1 trai.

 

2.jpgTrần Thị Thương Thương cùng chồng là luật sư Phạm Quỵ bên các con

            
Trước năm 1975, tại Sài Gòn, luật sư Phạm Quỵ làm việc tại Tòa Thượng thẩm, còn Thương Thương giảng dạy tại trường nữ trung học Gia Long. Sau năm 1975, cả nhà Thương Thương di trú sang Hoa Kỳ. Đến năm 1994, người lụa bến sông Hương sang Pháp an dưỡng tuổi già và thỉnh thoảng về Việt Nam thăm thân quyến.
 

Nguon theo NguyenKhoi