/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

Tin trong Nước

Làng có hai Trạng nguyên

Làng Trạng nguyên, Làng Nông thôn mới phát triển hài hòa cả kinh tế và văn hóa trong thời kì đổi mới và hội nhập hiện nay.

Làng có hai Trạng nguyên

08/12/2016 15:47 Số lượt xem: 247icon-a+.png icon-a-.png print.jpg icon_email.png
       Trạng nguyên là danh vị đỗ đầu cao quý nhất của khoa cử phong kiến thời xưa. Trải gần nghìn năm khoa cử, các triều đại chỉ lấy đỗ 47 vị trạng nguyên, thậm chí cả triều Nguyễn hơn trăm năm không lấy đỗ được trạng nguyên nào. Vậy mà làng Ngo, tên chữ là Bình Ngô, lại có đến hai vị đỗ trạng nguyên, vẻ vang đất học Kinh Bắc - Bắc Ninh. Thật đúng là Làng Trạng nguyên.

       Làng Ngo có tên cổ là Long Ngô động, tức động Long Ngô, gồm 6 giáp, nay là cụm dân cư gồm Ngo Đường, Ngo Giữa, Ngo Nội, Ngo Mụa, Ngo Kếp và Ngo Khoai, dân số ngày nay khoảng 8.300 người. Đây là nơi làm nông nghiệp thuận lợi, dân cư quần tụ đông đúc từ lâu đời, nền văn minh lúa nước sớm phát triển và là một bộ phận hợp thành của khu vực trung tâm văn hoá Việt. Thời Hùng Vương, làng Ngo thuộc bộ Vũ Ninh. Thời Bắc thuộc, làng Ngo thuộc huyện Gia Định (sau đổi là Gia Bình).

   Thời Lê Thánh Tông làng Ngo là một đơn vị cấp xã, chuyển tự là xã Bình Ngô, tổng Bình Ngô, huyện Gia Bình, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc. Tên xã được ghi trong mục Cẩn án sách Dư địa chí của Quan phục hầu Nguyễn Trãi. Thời Mạc phủ Thuận An chuyển về trấn Hải Dương. Thời Hậu Lê phủ Thuận An lại chuyển thuộc trấn Kinh Bắc. Khoảng giữa thế kỉ 16 làng Ngo tách thành 3 xã là Bình Ngô, Yên Ngô và Thường Vũ. Xã Bình Ngô gồm 3 xóm (nhất xã tam thôn) là Ngo Đường, Ngo Giữa và Ngo Nội. Xã Yên Ngô gồm 1 xóm Ngo Mụa (còn gọi là Ngo Đìa). Xã Thường Vũ gồm 2 xóm (nhất xã nhị thôn) là Ngo Kếp và Ngo Khoai. Sang thời Nguyễn, năm Minh Mạng thứ 13 (1832) trấn Kinh Bắc đổi thành tỉnh Bắc Ninh, thời Tự Đức (1867) phủ Thuận An đổi thành phủ Thuận Thành. Khi nhà Nguyễn lập cấp tổng thì làng Ngo thuộc tổng Bình Ngô huyện Gia Bình. Tuy chia lập thành 3 xã nhưng các mối quan hệ làng vẫn được duy trì khá chặt chẽ. Đình 5 thôn ở xóm Ngo Giữa vẫn còn đến tận ngày nay. Đền thờ Phổ quận công Vương Châu ở xóm Ngo Giữa có dựng bia thời Tự Đức vẫn đề là Ngũ hội bi kí và dân 5 thôn vẫn tổ chức ngày giỗ chung vào ngày 3-9 âm lịch. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 chính quyền mới thành lập xã An Bình gồm 5 thôn của làng Ngo là Bình Ngô Đường, Bình Ngô Giữa, Bình Ngô Chợ, Yên Ngô, Thường Vũ và thôn Nghi Khúc. Tháng 8 năm 1980 xã An Bình thuộc huyện Thuận Thành.

   Đất cổ Bình Ngô nằm trong hệ thờ Bách Noãn với di tích quan trọng là đình và nghè Ngo. Sách Bắc Ninh địa dư chí của đốc học Đỗ Trọng Vĩ soạn cuối thế kỉ 19 viết về nghè Ngo trong mục Cổ tích như sau: “Đền thờ thần Lạc Long Quân thuộc xã Bình Ngô huyện Gia Bình là đền thờ 100 con của Lạc Long Quân. Đất Bắc có đến hơn 100 nơi, đây là một trong những nơi đó. Qua các triều vua nghiệm thấy linh ứng. Theo sử ghi, cháu 4 đời họ Thần Nông là Kinh Dương Vương trị vì phương nam, lấy con gái vua Động Đình là Long Nữ đẻ ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai là Âu Cơ đẻ một lần được 100 người con trai, tức là tổ của giống Bách Việt. Một hôm Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: Ta là dòng dõi rồng, nàng là dòng dõi thần tiên, nước lửa xung khắc, ăn ở chung với nhau thực khó và từ biệt Âu Cơ, chia 50 con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha ở Nam Hải, phong con trưởng là Hùng Vương, vua Hùng Vương lên ngôi đặt tên nước là Văn Lang. Đền thờ có câu đối viết:

   Quan thiên vạn thế đồ phi thừa đại thống

   Lân đản bách nam thần trụ phát gia tường”.

   Về học vấn và khoa cử, sách Bắc Ninh địa dư chí viết: “Huyện Gia Bình về văn học thì có 2 tổng Bình Ngô, Đại Lai nhiều hơn”. Xét đỗ cao thì cả nước chỉ duy nhất xã Bình Ngô có 2 vị đỗ trạng nguyên. Các vị đỗ đại khoa gồm:

   1.- Tiến sĩ Nguyễn Đạt Tế: Đỗ Tiến sĩ năm 1469, làm quan đến chức Thị lang.

   2.- Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật: Đỗ năm 1484 với bài đối đình sách xuất sắc trả lời vua về cách dùng người của nhà Triệu Tống. Sau khi thi đỗ được tuyển làm quan ở Viện hàn lâm, chức Hàn lâm viện thị thư, thành viên hội Tao Đàn nhị thập bát tú đứng tên thứ 7. Thời Lê Hiến Tôn phong chức Đô ngự sử đài, phụng mệnh cùng thượng thư Đàm Văn Lễ phò lập Túc Tông. Khi Hiến Tông ốm nặng, bà Kính phi, mẹ nuôi hoàng tử Tuấn mưu lập tranh thái tử Thuần, nhưng bị hai ông không nhận. Không may Túc Tông lên ngôi vài tháng thì qua đời, hoàng tử Tuấn kế vị, tức vua Uy Mục Đế đã biếm chức hai ông vào Quảng Nam giữ chức Thừa tuyên sứ ngày 6-5. Khi hai ông vào đến huyện Chân Phúc (nay là Nghi Lộc) vua sai người đuổi theo bắt tự xử trên sông Lam.

   3- Tiến sĩ Nguyễn Trùng Quang: đỗ năm 1535, làm quan chức Hàn Lâm viện.

   4.- Trạng nguyên Nguyễn Lượng Thái: đỗ năm 1553, làm quan chức thị lang, tước Định Nham hầu.

   5.- Hoàng giáp Nguyễn Viết Cử: sinh 1616, đỗ hương cống khi 15 tuổi, đỗ hoàng giáp năm 1646, làm quan Hàn Lâm viện, Đông các đại học sĩ, tước Lộ Xuyên nam.

   6.- Hoàng giáp Nguyễn Tá Chính: đỗ năm 1844, làm quan Đốc học Hải Dương. Ngoài việc biên soạn thần tích làng Ngo còn soạn nhiều văn bia, nay có bia ở chùa Trấn Quốc (Hà Nội).

   Không chỉ vẻ vang về học nghiệp, Bình Ngô còn nức tiếng về võ công. Tại thôn Ngo Giữa hiện còn đền thờ “Cụ già khai quốc” Phổ quận công Vương Châu. Cụ có công chiến trận giúp nhà Lê trung hưng, trong đó có chiến công bắt sống tướng tiên phong nhà Mạc, làm thay đổi căn bản chiến cục ở trận đánh Tam Hiệp vùng Sơn Tây. Cụ là hậu thần của các thôn thuộc Bình Ngô.

Trong phong trào Cần Vương đánh Pháp, thôn Thường Vũ góp một nhân vật quan trọng, đó là tướng Đốc Tít, người dẫn quân rút lui khỏi căn cứ Bãi Sậy về chiến đấu ở căn cứ Phao Sơn vùng Đông Triều. Sau cụ bị quân Pháp bắt và đày đi châu Phi biệt tích.

   Làng Ngo nằm ở trung tâm nền văn minh lúa nước, địa thế tương đối cao, gần các trung tâm đô thị cổ như Luy Lâu, Cổ Loa, Thăng Long nên đã sớm phát triển nghề thủ công và trồng cây rau màu và còn giữ được đến tận ngày nay. Các thôn Ngo Đường, Ngo Giữa có nghề đan tre dân dụng truyền thống. Nghề làm đậu phụ vốn là nghề cổ truyền của thôn Nghi Khúc, hiện nay phát triển nhất và cho thu nhập tốt nhất. Riêng thôn Thường Vũ có khoảng 65% số hộ ra ngoài làm nghề này. Thu nhập bình quân mỗi hộ khoảng 100 triệu đồng/năm. Nghề làm đậu hiện nay đã được công nghiệp hoá một số khâu nên năng suất cao. Thôn Yên Ngô có nghề trồng khoai sọ và dưa chuột từ xưa, nay vẫn giữ được và còn phát triển thêm nhiều giống cây trồng mới cho thu nhập cao (khoảng 200 triệu đồng/mẫu) với diện tích tương đối ổn định khoảng 50 mẫu.

       Trong phong trào xây dựng Nông thôn mới, xã An Bình được chọn là xã điểm của tỉnh và đã về đích từ đợt đầu. Làng Trạng nguyên, Làng Nông thôn mới phát triển hài hòa cả kinh tế và văn hóa trong thời kì đổi mới và hội nhập hiện nay.

 Phạm Thuận Thành (Thường Vũ, An Bình, Thuận Thành)