VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
Thơ
CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ VỀ TỈNH HẢI DƯƠNG
Tỉnh Hải Dương cổ (trước thời Đồng Khánh) gồm 19 huyện, sau đó chính quyền thực dân Pháp chia lại địa giới hành chính...CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ VỀ TỈNH HẢI DƯƠNG
.
Tỉnh Hải Dương cổ (trước thời Đồng Khánh) gồm 19 huyện, sau đó chính quyền thực dân Pháp chia lại địa giới hành chính và thời nay gồm 2 thành phố, một thị xã và 9 huyện. Xin giới thiệu cùng bạn đọc về một số câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Chúng tôi tiếp tục sưu tầm và xuất bản sách phục vụ độc giả:
CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ VỀ TỈNH HẢI DƯƠNG
.
Tỉnh Hải Dương cổ (trước thời Đồng Khánh) gồm 19 huyện, sau đó chính quyền thực dân Pháp chia lại địa giới hành chính và thời nay gồm 2 thành phố, một thị xã và 9 huyện. Xin giới thiệu cùng bạn đọc về một số câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Chúng tôi tiếp tục sưu tầm và xuất bản sách phục vụ độc giả:
1-
Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm
Nào ai đi chợ Thanh Lâm
Mua anh một áo vải thâm hạt dền.
(Đồng Tỉnh, Huê (Hoa) Cầu, làng có nghề nhuộm vải thâm từ xa xưa thuộc huyện Văn Giang Bắc Ninh, từ năm 1948 cắt về Hưng Yên. Làng này 11 TS. Nho học, nay thuộc xã Nghĩa Trụ, Hưng Yên, quê của TBT Tô Lâm. Thanh Lâm nay là Nam Sách, Hải Dương)
2-
Bao giờ lấp ngã ba Tranh
Để ta gánh đá xây thành Cổ Loa.
(Ngã ba Tranh Xuyên, từ Tranh sau này Nôm hóa gọi là Chanh: nơi sông Hóa (trước 1890 là sông Tranh) tách ra từ sông Luộc (trước 1890 là sông Lục), tạo thành ngã ba tiếp giáp giữa Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình. Sông Luộc trước năm 1285 chỉ đến ngã ba Tranh, sau đó Trần Hưng Đạo đã đề đạt với vua Trần Nhân Tông và cho đào đoạn từ ngã 3 Tranh tới ngã ba Hải với chiều dài chừng 4 dặm và từ đó trở đi hệ thống sông Nhị (sau là sông Hồng) và sông Hàm (sau là sông Thái Bình). Ở đó có đền Tranh (huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương) thờ Quan Lớn Tuần Tranh rất linh thiêng. Thời nay có tới 3 đền Tranh mọc lên ở khu vực này?)
3-
Bút nghiên, đèn sách, văn phòng
Hồng Châu, Nam Sách nhiều dòng thi thơ.
4-
Cam Phù Tải, vải Thúy Lâm
(Phương ngôn huyện Thanh Hà)
5-
Chim gà, cá nhệch, cảnh cau
Mùa nào thức ấy giữ màu thú quê .
(Ca dao Thanh Hà)
6-
Chơi với quan Thanh Lâm
Như giáo đâm vào ruột.
7-
Chuông Châu, trống Ủng, mõ Đầu.
(Chuông làng Châu, trống làng Ủng, mõ làng Đầu, ba làng ở gần nhau)
8-
Có tiền buôn Đông, không tiền buôn Thái.
9-
Con gái làng Vờ đẹp như trong tranh
Chồng gọi thì dạ thưa anh bảo gì
Con gái Vũ Thượng mặt mủng da chì
Chồng gọi thì hử, cái gì thằng kia?
(Ca ngợi con gái làng Vờ ngoan, đẹp và phê phán con gái Vũ Thượng vừa xấu, vừa ghê gớm. Các điạ danh trên nằm ở phường Ái Quốc, thành phố Hải Dương ngày nay)
10-
Cô kia đội nón quai xanh
Có về tổng Giám với anh thì về
Tổng Giám có ruộng tứ bề
Có ao tắm mát, có nghề quay tơ.
(Tổng Giám nay thuộc huyện Cẩm Giàng)
11-
Côi Đông thâm vai, Côi Đoài thâm đít, Tự Đông hít bờ, Phượng Cáo rờ ao.
(Bốn địa phương thuộc thành phố Hải Dương. Côi Đông gồng gánh hàng xáo nên thâm vai, Côi Đoài cả ngày ngồi đan thúng nên thâm đít, Tự Đông, Phượng Cáo chuyên mò cua bắt ếch nên hít bờ, rờ ao)
12-
Cơm làng Hoá, cá làng Từ
Áo quần Thủ Pháp, cửa nhà Châu Quan.
(Phương ngôn xã Đoàn Kết, Thanh Miện)
13-
Cơm Ma Há, cá Văn Thai, bánh gai Đồng Nền.
(Những món ngon ở các làng thuộc Cẩm Giàng, Nam Sách)
14-
Đầu Trắm, đuôi Mè, giữa khe Tam Lạng.
(Đầu là làng Trắm, đuôi là khu vực Mè, Tam Lạng là ba làng Lạng (Bình Lãng): làng Đông, làng Thượng, làng Khổng Lý. Đều thuộc huyện Tứ Kỳ)
15-
Đền thờ Nhân Huệ anh hùng
Vân Đồn vang dội, giặc Nguyên rụng rời.
(Ca dao về đền Gốm ở Chí Linh, thờ tướng Trần Khánh Dư)
16-
Đình Sinh, Quán Sếu, làng Tràng
Trong ba làng ấy không làm cũng có ăn.
(Ba làng Thanh Liễu, Khuê Liễu, Liễu Tràng ở huyện Gia Lộc xưa có nghề khắc in bản mộc. Nghề đó đem lại cuộc sống no đủ cho người dân ba làng).
17-
Đường làng Dầu trơn như mỡ.
(Làng Dầu nay thuộc Cẩm Giàng)
18-
Đường về Kiếp Bạc bao xa
Đường về Kiếp Bạc có cây đa bồ đề
Có yêu anh cắp nón ra về
Giàu ăn khó chịu, chớ hề thở than.
19-
Gốm trông phong cảnh hữu tình
Càng nhìn càng thấy vẻ xinh tuyệt vời
Dưới sông thuyền chạy ngược xuôi
Trên bờ phố Gốm hết lời ngợi ca
Đêm đèn đốt tựa sao sa
Đền thờ Nhân Huệ nguy nga lẫy lừng
Nhân dân nô nức tưng bừng
Đón rằm tháng Tám hội mừng đua chen.
20-
Hải Dương tứ kiệt: Nhất Đĩnh, nhì Minh, tam Kình, tứ Thấm (Khắm).
(Kình là Đào Trọng Kình, bố của Tổng đốc Đào Trọng Kỳ, quê ở Cổ Am, Vĩnh Bảo, còn Thấm (tục là Khắm) họ Lê, sau này là bố vợ của ông Kỳ. Tổng đốc Đào Trọng Kỳ là người có công lớn đào sông Chanh Dương ở huyện Vĩnh Bảo. Bốn vị trên là bậc hào kiệt của tỉnh Hải Dương thời Nguyễn)
21-
Hến Cầu Tre, cá mè Lai Cách.
(câu ca ở huyện Cẩm Giàng)
22-
Hoàng Xuyên, Văn Nhuệ cũng giống thôn ta
Thủ Pháp, Lang Gia về ta cũng thế.
(Phương ngôn làng Châu Quan, xã Đoàn Kết, huyện Thanh Miện)
23-
Kẻ Sặt đất lề quê thói
Kiệt sơn thất thập nhị phong
Phượng Hoàng đệ nhất trong vùng Chí Linh.
24-
Làng Châu Khê tay vàng tay bạc
Cân Bái Dương giữ mực trung thành
Làng Cao thợ thiếc lọc tinh
Kim hoàn La Tỉnh nghề lành càng ghê.
(Các làng nghề kim hoàn, kim khí ở Bình Giang, Cẩm Giàng, Chí Linh, Tứ Kỳ)
25-
Làng Hóp có bán lợn con
Làng Quao có đất sơn son nặn nồi.
(Làng Hóp, làng Quao thuộc huyện Nam Sách)
26-
Lẳng lơ chẳng một mình tôi
Thanh Lâm, Đồng Sớm cũng đôi ba người
Nói ra sợ chị em cười
Lấy chồng tháng chín, tháng mười có con.
(Làng Thanh Lâm, xưa thuộc tổng An Trú, huyện Thành Lâm, thời nay thuộc khu vực xã Thanh Lâm, huyện Nam Sách. Còn Đồng Khê, tên Nôm là Đồng Sớm, xưa thuộc tổng An Lương, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách. Thời nay thuộc xã An Lâm, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
27-
Loa đồng hỏi nước sông Tranh
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời
Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang.
28-
Một đồng một giỏ
Không ai bỏ nghề câu
(Phương ngôn làng Giám - Cẩm Giang. Hai từ Cẩm Giang nghĩa nôm na là con sông đẹp. Từ khi chúa Trịnh Giang cầm quyền, thì từ Giang trong văn nói đọc chệch là Giàng, song trong văn viết vẫn ghi là Giang, kể cả các Thần sắc năm Bảo Đại 9 (1924) vẫn ghi là Cẩm Giang)
29-
Mộ Trạch họp việc làng giữa kinh đô.
(Đời chúa Trịnh Tráng, làng Mộ Trạch có tới 17 người đỗ đạt làm quan trong triều)
30-
Muốn ăn cơm trắng, cá ngần
Lấy chồng làng Bói cho gần chợ Hôm.
(Bói, Hôm thuộc huyện Ninh Giang)
31-
Muốn làm con mẹ con cha
Thì sinh ở đất Thanh Hà xứ Đông.
32-
Mưa từ làng Lý, làng Rào
Lòng em khao khát mà nào thấy mưa.
(Lý, Rào thuộc thị trấn Nam Sách)
33-
Nam Chân, Bắc Dũng, Đông Kỳ, Tây Lạc.
(Thời Nguyễn, có bốn huyện được coi là trù phú nhất: xứ Sơn Nam có huyện Chân Định - nay là Kiến Xương, xứ Kinh Bắc có huyện Yên Dũng, xứ Hải Dương có huyện Tứ Kỳ, xứ Sơn Tây có huyện Yên Lạc)
34-
Năm giáp Châu Khê, hai đình Hàng Bạc.
(Người làng thuộc năm giáp ở làng Châu Khê (Bình Giang) di cư ra Thăng Long làm nghề đúc bạc, lập ra phố Hàng Bạc. Hai ngôi đình là Trương đình và Kim Ngân đình là nơi nộp thành phẩm cho Nhà nước)
35-
Nước Thanh Mai đi hai về một.
(Xưa kia Thanh Mai ở Chí Linh là vùng rừng thiêng nước độc)
36-
Quan làng Cốc, ốc làng Cờ.
(Làng Thượng Cốc ở Gia Lộc có nhiều người làm quan như Nghè Tân, PCT nước Lê Thanh Nghị, Nhà cách mạng Nguyễn Hới... Làng có gần 40 TS thời nay và 4 nhà văn. Làng Cờ ở Tứ Kỳ ruộng trũng có nhiều ốc)
37-
Quần cộc chân chì, không Tứ Kỳ thì cũng Gia Lộc.
Hay: Mắt toét chân chì. Chẳng Tứ Kỳ cũng Gia Lộc
(Người dân Tứ Kỳ, Gia Lộc chuyên mặc quần cộc nên chân đen).
38-
Người Tứ Kỳ làm gì cũng được
39-
Đường Tứ Kỳ xe gì đi cũng hỏng
40-
Rượu làng Tơ, cờ Mộ Trạch
41-
Tại hương tại phố một quê
Châu Khê, Hàng Bạc đi về ngược xuôi
Như hương tỏa khắp mọi nơi
Kim hoàn trang sức cho đời đẹp xinh.
42-
Tháng tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ.
(Hội đền Kiếp Bạc mở vào tháng tám để tưởng nhớ Đức Thánh Trần; hội Phủ Dầy ở Nam Định mở vào tháng ba để tưởng nhớ Mẫu Liễu Hạnh)
43-
Thành Hà Nội năm cửa, chàng ơi
Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng
Nước sông Thương bên đục bên trong
Núi đức thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có Thánh sinh...
(Sông Lục Đầu ở Hải Dương là nơi diễn ra nhiều trận đánh chống quân xâm lược)
44-
Thành Phao, Phả Lại, Lục Đầu
Em về em để mối sầu cho ai.
45-
Thứ nhất cô Nghị Thanh Hoa
Thứ nhì Bủi Lạng, thứ ba Thạch Sùng.
(Những người giàu có nhất ở Việt Nam thời xưa. Bà Bủi ở thôn Đông, xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ)
46-
Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm.
(Làng Đọc giàu có, làng Nhữ ruộng tốt, nhiều thóc lúa, làng Chằm (Mộ Trạch) nổi tiếng học giỏi. Ba làng thuộc huyện Bình Giang)
47-
Trạng cờ Mộ Trạch càng ghê
Sứ Yên thua cuộc rút xe về thành.
(Tiến sĩ Vũ Huyên người làng Mộ Trạch dùng mẹo mách nước cờ cho vua Lê Dụ Tông khi vua đánh cờ với sứ Trung Hoa)
48-
Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Hà Nội, Nam Định dọn đàng đưa dâu
Tỉnh Thanh cung đốn trầu cau
Nghệ An thời phải thui trâu mổ bò
Hưng Yên quạt nước hỏa lò
Thái Bình thời phải giã giò, gói nem
Ninh Bình trải chiếu bưng mâm
Hải Dương vót đũa, Hà Đông đúc nồi
Sơn Tây gánh đá nung vôi
Bắc Cạn thời phải thổi xôi nấu chè
Gia Định hầu điếu hầu xe
Phủ Đình thời phải chém tre bắc cầu
Nước Tây nước Tàu anh gửi thư sang
Anh mời hai họ nhà trời
Ông Sấm ông Sét, đứng đầu Thiên Lôi.
49-
Tứ Kỳ, Gia Lộc, ăn độc, ăn tham
Nam Sách, Kinh Môn, vừa khôn, vừa đểu.
50-
Vợ xứ Đông, chồng xứ Bắc
(Con gái xứ Đông - Hải Dương, nhiều người đảm đang, tháo vát)
51-
Xa đưa văng vẳng tiếng chuông
Kìa chùa Phả Lại chập chùng bên sông.
52-
Con gái Vũ La, làm mắm mắm thối, làm cà cà thiu
(Vũ La ở Nam Đồng HD)
53-
Phú Lương nổi tiếng nhất
Bánh chưng đất nhất vùng
(Thời bao cấp hành khách trên tàu hỏa bị lừa mua bánh chưng đất của một số thương nhân tại cầu Phú Lương)
54-
Phú Chiêm ăn cá bỏ đầu
Thanh Hà xách dọc xỏ xâu đem về.
(Câu ca dao nói về thói quen ăn uống và các món ăn đặc sản của người dân Thanh Hà ở Hải Dương).
55-
Chơi với dân Vĩnh Lại
Chẳng mất dái cũng mất cu
(Vĩnh Lại là huyện cũ của Ninh Giang và nửa dưới của Vĩnh Bảo thời nay)
56-
Chơi với dân làng Tranh
Chẳng còn bát sành mà ăn.
(Tranh Xuyên thuộc Ninh Giang, trước nữa bao gồm cả Tranh Chử bên Vĩnh Bảo)
57-
Lấy vợ làng Bói
Chưa chắc con mình
Lấy vợ làng Chiềng
Chẳng cần lo lắng?
(Làng Bói ở huyện Ninh Giang con gái thường làm nghề buôn bán có thói trăng hoa. Còn làng Chiềng cũng ở huyện Ninh Giang)
58-
Ăn đất Bói
Nói đất Mét
(Bói ở Ninh Giang, còn Mét ở Cổ Am, Vĩnh Bảo. Từ trước năm 1838 hai làng này cùng huyện Vĩnh Lại)
59-
Trai làng Bói, gái Cổ Am
Thà rằng chẳng biết cho cam
Biết rồi kẻ Bắc người Nam thêm rầu?
(Làng Cổ Am thuộc huyện Vĩnh Bảo, trước 1952 thuộc tỉnh Hải Dương. Làng Bói cùng thuộc huyện Vĩnh Lại)
60-
Tham ăn vào Chiềng
Tham tiền vào Bói
Chết đói vào Hòa Ung
(3 làng trên đều thuộc huyện Ninh Giang)
61-
Chợ Sặt bánh đa
Chợ Bóp bánh đúc
Chợ Chùa ăn vụng
Chợ Bùi ăn chơi
62-
Trai làng Ngái
Gái làng Sài.
(Hai làng trên thuộc huyện Tứ Kỳ)
63-
Bỏ con bỏ cháu
Không ai bỏ Hai Mươi Sáu chợ Yên
Bỏ tổ bỏ tiên
Không ai bỏ chợ Viềng mùng Tám
(Chợ Yên ở Tứ Kỳ, còn chợ Viềng ở Nam Định, xưa kia là những chợ nổi tiếng, mỗi năm họp một lần. Chợ Yên (Thiều) họp vào 26 tháng chạp, còn chợ Viềng họp vào mùng 8 tết)
64-
Về chợ Vé ghé mua thịt Trâu
(Chợ Vé ở Ninh Giang có thịt trâu ngon)
65-
Trai Cẩm Phô chưa xô đã ngã
Gái Thanh Hà chưa gạ đã theo
(Cẩm Phô ở Hội An, Quảng Nam)
66-
Gái Thanh là gái chẳng vừa
Gái bán "vải tổ", gái lừa "vải con"?
Gái Thanh là gái chả non
Gái lừa chợ Cháy gái buôn chợ Mè?
(Thanh đây là tên gọi tắt của Thanh Hà, tên cổ là Bình Hà, quê hương của vải thiều tổ. Đến thời Mạc thì đổi thành Thanh Hà vì ông nội Mạc Đăng Dung là Mạc Phúc Bình.Vải tổ nôm na là "vải già khắc cú đế", hiểu theo nghĩa nào cũng được? Chợ Mè nay ở xã Hồng Lạc, còn chợ Cháy hay chợ Chiều ở xã Cẩm Việt)
67-
Phú Thọ quạt nước Hỏa Lò
Hải Dương rọc lá giã giò gói nem?
68-
Phiên chợ Đông, con cá hồng em chê nhạt.
Phiên chợ tàn, con cá nhạt em lại khen ngon.
(Câu này có ý là chợ An Đông ở Nam Sách và còn một ý nữa là đông khách)
69-
Chó làng Chằm cắn ra chữ, chó làng Nhữ cắn ra thóc, chó làng Đọc cắn ra tiền.
(Làng Đọc giàu có, làng Nhữ ruộng tốt, nhiều thóc lúa, làng Chằm (Mộ Trạch) nổi tiếng học giỏi. Ba làng thuộc huyện Bình Giang)
70-
Hay: Tiền Đọc. Thóc Nhữ. Chữ Chằm
(Làng Đọc giàu có, làng Nhữ ruộng tốt, nhiều thóc lúa, làng Chằm (Mộ Trạch) nổi tiếng học giỏi. Ba làng thuộc huyện Bình Giang)
71-
Lắm thóc Đại Điền. Lắm tiền Cam Lộ
(Hai làng này thuộc Thanh Hà)
72-
Trai Sài gái Mạc
(Thời nay là thôn An Lại (Sài), xã Dân Chủ, huyện Tứ Kỳ. Còn Mạc Xá (Mạc) xã Quảng Nghiệp, huyện Tứ Kỳ, là những người "trai tài gái sắc")
73-
An Dương, Trung Hành - Kim Thành, Quỳnh Khê
(Huyện An Dương có làng Trung Hành (nay thuộc quận Hải An) và huyện Kim Thành có làng Quỳnh Khê (nay thuộc xã Kim Xuyên) nhiều người đỗ đạt).
74-
Trai Vĩnh Lại
Gái Tứ Kỳ
(Lục tổng phía trên của huyện Vĩnh Bảo là phần thực địa của huyện Tứ Kỳ cổ, còn lục tổng phía dưới là thực địa của huyện Vĩnh Bảo thuộc huyện Vĩnh Lại. Câu này ý nói trai tài gái sắc của hai huyện)
75-
Tràng Kinh - Kim Quan
Cùng làng Dưỡng Động
(Dân làng Tràng Kinh thuộc tổng Kim Quan, huyện Cẩm Giang, sau là Cẩm Giàng có họ hàng thân thích với dân làng Tràng Kinh ở tổng Dưỡng Động, huyện Thủy Đường, sau là Thủy Nguyên. Sauk hi di cư xuống cửa biển, họ không quên nơi chôn nhau cắt rốn của mình đã lấy tên là làng Tràng Kinh (Kênh), hai làng này xưa kia có giao hiếu với nhau và có cùng một Thành hoàng)
76-
Kênh rạch đất Quan Trang
Ngổn ngang mùa nước nổi
(Tổng Quan Trang gồm 8 làng mang tên Trang thuộc huyện Kim Thành, từ đầu thế kỷ XX được cắt về huyện An Lão. Tới đầu thập niên 60 thế kỷ XX vẫn chưa có đường bộ về xã)
77-
Chơi với dân làng Thông
Mất cả gồng lẫn gánh
(Làng Phạm Lâm, tên Nôm là Thông, xưa thuộc tổng Đoàn Lâm, huyện Gia Lộc, thời cách mạng thuộc xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện. Dân làng buôn bán, nên rất tinh ranh)
78-
Chơi với dân làng Cuối
Chẳng còn muối mà ăn
(Làng Hội Xuyên, tên Nôm là Cuối, xưa thuộc tổng Hội Xuyên, huyện Gia Lộc, thời cách mạng thuộc thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc. Thôn dân làm nghề buôn bán, nên khá tinh ranh)
79-
Qua Thông, ghé Bóng, chớ vào Rồng
Chó cắn mất gậy trở ra không
.
(Làng Phạm Lâm, tên Nôm là Thông, xưa thuộc tổng Đoàn Lâm, huyện Gia Lộc, thời cách mạng thuộc xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện. Làng Hậu Bổng, tên Nôm là Bóng, xưa thuộc tổng Hậu Bổng, huyện Gia Lộc, thời cách mạng là thôn Hậu Bổng, xã Quang Minh, huyện Gia Lộc. Còn làng Cao Duệ, tên Nôm là Rồng, xưa thuộc tổng Tông Đức, huyện Gia Lộc, thời cách mạng thuộc xã Nhật Tân, huyện Gia Lộc.)
.
80-
Làng Bung đánh tùng làng Đại
Làng Đại vác vại đi xin
(Giáp Đức Phong, tên Nôm là Bung; Giáp Đại Liêu, tên gọi tắt là Đại, xưa thuộc làng Hội Xuyên, tổng Hội Xuyên, huyện Gia Lộc, thời nay thuộc thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương
81-
Làng Xìn đánh trống
Làng Hống đưa ma
Làng Ta ăn cỗ
Làng Giỗ gặm xương.
(Giáp Xìn hay Sìn, xưa thuộc tổng Hồng Thị, sau đổi thành Lạc Thị, thời nay thuộc thị trấn Gia Lộc; Làng Hồng Thị, sau là Lạc Thị, tên Nôm là Hống, xưa thuộc tổng Hồng Thị, sau đổi thành Lạc Thị, huyện Gia Lộc, thời cách mạng thuộc xã Gia Khánh, thời nay thuộc thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc; Giáp Vĩnh Dụ, tên Nôm là Giỗ (hay Dỗ) xưa thuộc làng Hoa Điếm (từ 1841 đổi thành Phương Điếm), tổng Hội Xuyên, huyện Gia Lộc, phủ Thượng Hồng. Thời cách mạng thuộc thị trấn Gai Lộc, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương)
82-
Nội Tạ độc tộc
Bảo Lộc nhiều dứa
Lắm lúa Tây Tạ
(Làng Nội Tạ, xưa thuộc tổng Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ, từ năm 1838 trở đi thuộc huyện Vĩnh Bảo, thời cách mạng thuộc xã An Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Từ thời Tây Sơn (1789) trở về trước cả làng chỉ có duy nhất dòng họ Nguyễn, sau này các chi có tên đệm như Xuân, Trọng... và đời sau lại lấy tên đệm ra thành họ. Làng Bảo Lộc, xưa thuộc tổng Chân Lại, huyện Tứ Kỳ, ngoài ra còn 2 làng có dứa ngon nữa là Chân Lại và Toại An, thời cách mạng thuộc huyện Tứ Kỳ, Hải Dương. Còn vào năm 1485 vua Lê Thánh Tông lập 43 sở đồn điền, trong đó có sở Tây Tạ gồm Thượng Đồng thuộc tổng Bắc Tạ, thuộc huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng và từ cuối thế kỷ XVIII thêm Hạ Đồng nằm ở huyện Vĩnh Lại thuộc phủ Hạ Hồng, thời cách mạng thuộc xã An Hòa bên tả ngạn sông Hóa và Hạ Đồng thuộc xã Cộng Hiền cách Thượng đồng chừng vài cây số. Đây là câu ca trong huyện Tứ Kỳ)
83-
Hùng triều lưu hiển tích
Tây Tạ ngật sùng từ
Dịch nghĩa:
Giữ giá trị văn hóa thời Hùng
Ở Tây Tạ có ngôi đền cao
(Sở Tây Tạ, xưa thuộc tổng Bắc Tạ, khu vực chính sau này là Thượng - Hạ Đồng thời nay bên tả ngạn sông Hóa, thời cách mạng thuộc xã An Hòa và Hạ Đồng, xưa thuộc tổng Bắc tạ, thời cách mạng thuộc xã Cộng Hiền, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Theo Thần tích Thần sắc của làng và trang 409 “Từ điển Bách khoa Địa danh Hải Phòng” ghi: “Làng có 6 Thành hoàng gồm: Quốc Phi Phu Nhân; Nghiêm Thắng; Linh Phù Hiến Công Hầu, thường gọi là Hiến Công hầu, ngờ là Trần Công Hiến, tức Ân, đời Gia Long làm Trấn thủ Hải Dương tổ chức đắp đê ở vùng này, dân nhớ ơn gọi là đê Trần Công; Linh Ứng; Hoa Tươi Phu Nhân và Phạm Thiện Phu Nhân. Cả 6 vị đều không rõ tích, chỉ biết Phạm Thiện là nhân thần…”. Theo chúng tôi, thì tác giả ở từ điển hiểu sai, đây là mỹ từ “Phạm Thiện Phu Nhân”, mà nhà vua cho, nghĩa là “người phụ nữ quyền quý thiện lương, trong sạch”, chứ không thể có người nào là vợ ông Phạm Thiện cả. Thế rồi dân làng Thượng Đồng lại suy đoán là ông Phạm Thiện vì tại làng này phần lớn mang họ Phạm”.
84-
Tứ Kỳ - Vĩnh Lại:
- Bố cu Vĩnh, dắt cu Vĩnh đi chơi, cu Vĩnh không đi, cu Vĩnh nằng nặc đòi ở lại
- Mẹ cái Tứ, bắt cái Tứ về tắm, cái Tứ không tắm, cái Tứ khăng khăng chẳng muốn kỳ.
85-
Tạ Xá tam thôn đình cộng bái
Tráng, Tè nhị xứ thổ tòng nguyên
Dịch nghĩa:
Xã Tạ Xá xưa có ba thôn cùng chung một đình thờ phụng
Hai làng Tráng và Tè có thủa cùng một gốc mà ra.
(Tạ Xá, tức làng Tạ, tên Nôm là Tè, về sau gọi địa danh bằng hai từ mới có làng Tạ Xá, xưa thuộc tổng Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ, vào cuối thời Mạc thì tách làm hai làng là Trung Tạ và Nội Tạ. Từ năm 1838 thuộc huyện Vĩnh Bảo. Rồi từ năm 1891 thì Trung Tạ tách làm hai làng là Tạ Ngoại và An Lãng, tên Nôm của An Lãng là Tráng. Thời cách mạng thuộc xã An Hòa, từ 2025 là xã Vĩnh Hòa. Trước năm 1937, 3 làng này có chung một đình gọi là đình Ba Xã được đặt ở khu đống Miễu giữa Nội Tạ và Tạ Ngoại, nay thuộc khu nghĩa trang dòng họ Nguyễn Xuân Nội Tạ, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng)
(Còn nữa)
NGỌC TÔ sưu tầm
(Mọi góp ý xin gửi về Email: tongocthachhp@gmai.com - Xin chân thành cảm ơn)
Các tin khác
-
CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ NỘI ĐÔ HẢI PHÒNG
-
CHÙM 21 BÀI THƠ VỀ RƯỢU CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
-
CA DAO TỤC NGỮ THÀNH NGỮ CỔ VỀ ĐỒ SƠN
-
CA DAO TỤC NGỮ THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN AN DƯƠNG
-
Ở nơi bình minh vừa thức dậy
-
CA DAO TỤC NGỮ THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN NGHI DƯƠNG (KIẾN THỤY)
-
CA DAO TỤC NGỮ CỔ VỀ HUYỆN AN LÃO – HẢI PHÒNG
-
CA DAO TỤC NGỮ CỔ VỀ HUYỆN TIÊN LÃNG - HẢI PHÒNG
-
CA DAO TỤC NGỮ CỔ VỀ HUYỆN VĨNH BẢO – HẢI PHÒNG
-
CHÂN DUNG NHÀ THƠ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI (TIẾP)